Dàn ý và top 20+ bài phân tích vợ chồng a phủ hay, ngắn gọn

Trong bài viết hôm nay mình sẽ chia sẻ với các bạn dàn ý và top những bài phân tích vợ chồng a phủ hay, ngắn gọn nhất nhé

 

1. Dàn ý phân tích vợ chồng a phủ

Dàn ý phân tích vợ chồng a phủ

 

 

I. Mở bài

  •  

  • Tô Hoài là nhà văn có lối trần thuật hóm hỉnh, ông có sở trường về loại truyện phong tục và hồi kí.

  •  

  • Vợ chồng A Phủ được in trong tập Truyện Tây Bắc, tác phẩm là sự phản ánh nỗi khổ của đồng bào Tây Bắc dưới ách thống trị của thực dân Pháp, đồng thời ngợi ca vẻ đẹp con người nơi

  • đây.

II. Thân bài

 

1. Nhân vật Mị

 

a. Trước khi trở thành con dâu gạt nợ

 

- Mị là cô gái người Mông trẻ trung, hồn nhiên, có tài thổi sáo. Mị đã từng yêu, luôn khao khát đi theo tiếng gọi của tình yêu. Hiếu thảo, chăm chỉ, ý thức được giá trị cuộc sống tự do nên sẵn sàng làm

nương ngô trả nợ thay cho bố.

 

b. Từ khi trở thành con dâu gạt nợ

  •  

  • Nguyên nhân: món nợ truyền kiếp từ thời cha mẹ Mị, tục cướp vợ của người Mông đem về cúng trình ma. Người lao động bị cả cường quyền và thần quyền buộc chặt.

  •  

  • Mị phải chịu những đày đọa về thể xác: phải làm việc không kể ngày đêm, “không bằng con trâu con ngựa” ; bị đánh đập dã man: bị trói, đạp vào mặt,...

  •  

  • Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau: một cô gái lúc nào cũng “mặt buồn rười rượi”, không quan tâm đến thời gian (hình ảnh ô cửa sổ), sống lầm lũi “như con rùa nuôi trong xó cửa”, “ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi”.

 

- Trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài, sức sống của Mị đã trỗi dậy:

  • Âm thanh cuộc sống bên ngoài (tiếng trẻ con chơi quay, tiếng sáo gọi bạn tình,..) đánh thức những kỉ niệm trong quá khứ.

  •  

  • Mị ý thức được sự tồn tại của bản thân “thấy phơi phới trở lại”, “Mị còn trẻ lắm...”, với khát khao tự do, thắp sáng căn phòng tối, muốn “đi chơi tết” chấm dứt sự tù đày.

  •  

  • Khi bị A Sử trói, lòng Mị vẫn lửng lơ theo tiếng sáo, tiếng hát của tình yêu đến những đám chơi. Lúc vùng dậy cô chợt tỉnh trở về với hiện thực.

 

- Nhận xét: Mị luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, sức sống ấy luôn âm ỉ trong lòng người con gái Tây Bắc và chỉ chờ có cơ hội để bùng lên mạnh mẽ.

 

- Khi A Phủ làm mất bò, bị phạt trói đứng:

  •  

  • Ban đầu Mị dửng dưng bởi sau đêm tình mùa xuân, cô trở lại là cái xác không hồn.

  •  

  • Khi thấy giọt nước mắt của A Phủ khiến Mị đồng cảm, chợt nhớ đến hoàn cảnh của mình trong quá khứ, Mị lại biết thương mình và thương cho kiếp người bị đày đọa “có lẽ ngày mai người

  • kia sẽ chết, chết đau,... phải chết”.

  •  

  • Bất bình trước tội ác của bọn thống lí, Mị cắt dây đay cởi trói cho A Phủ. Mị sợ cái chết, sợ nhà thống lí, cô chạy theo A Phủ tìm lối thoát.

 

- Nhận xét: Mị là người con gái lặng lẽ mà mạnh mẽ, hành động của Mị đã đạp đổ cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị miền núi.

2. Nhân vật A Phủ

 

- Số phận: mồ côi cha mẹ, không còn người thân, lớn lên đi làm thuê, sau đó trở thành người ở gạt nợ nhà thống lí Pá Tra.

 

- Khi trở thành người ở gạt nợ:

  •  

  • Nguyên nhân: đánh con quan, thua cuộc trong vụ xử kiện quái gở.

  •  

  • A Phủ chịu sự đày đọa về mặt thể chất: phải làm những công việc nặng, nguy hiểm: “đốt rừng, cày nương, săn bò tót,...”, không có giá trị bằng một con bò, làm mất bò mà bị trói đứng đến chết.

- Tích cách:

 

  • Lúc nhỏ mạnh mẽ, gan bướng: khi bị bán xuống cánh đồng thấp lại trốn lên núi cao

  •  

  • Lớn lên là chàng trai khỏe mạnh chăm chỉ, tháo vát, biết làm mọi công việc. Là người biết bất bình trước bất công (đánh A Sử), khao khát tự do (nén đau để vùng chạy khi được cắt dây trói).

 

Nhận xét: A Phủ được nhìn từ bên ngoài với những lời nói ngắn gọn, hành động dữ dội mạnh mẽ.

 

III. Kết bài

 

  • Nghệ thuật: ngôn ngữ, cách nói đậm chất miền núi, lối trần thuật linh hoạt với sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật, miêu tả thành công tâm lí nhân vật và hình ảnh thiên nhiên.

  •  

  • Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc: sự cảm thông với số phận đau khổ của những con người chịu áp bức, tố cáo lên án bọn thống trị miền núi, bọn thực dân, ngợi ca vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng trong mỗi con người Tây Bắc.

 

 

phân tích vợ chồng a phủ

Dàn ý phân tích vợ chồng a phủ

2. Top 20+ bài phân tích vợ chồng a phủ

Vợ chồng A Phủ phân tích - Mẫu 1

 

Cuối năm 1952, nhà văn Tô Hoài đi với bộ đội trong chiến dịch Tây Bắc. Sau khi tìm hiểu chung, Tô Hoài quyết định đi sâu vào những khu du kích của đồng bào các dân tộc thiểu số trên vùng núi cao. Chuyến đi kéo dài tám tháng đã để lại những ấn tượng sâu sắc và tình cảm tốt đẹp cho nhà văn. Tô Hoài kể lại: “Cái kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi tám tháng ấy là đất nước và con người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không thể bao giờ quên. Tôi không thể bao giờ quên được lúc vợ chồng A Phủ tiễn tôi tại dốc núi làng Tà Xùa rồi cùng vẫy tay gọi theo: “Chéo lù! Chéo lù” (Trở lại! Trở lại!).

 

Không bao giờ tôi quên được lúc vợ chồng Lý Nủ Chu tiễn chúng tôi dưới chân núi Cao Phạ cũng vẫy tay kêu: "Chéo lù! Chéo lù!". Hai tiếng: Trở lại! Trở lại! chẳng những nhắc tôi có ngày trở lại, phải đem trở lại cho những người thương ấy của tôi một kỉ niệm tấm lòng mình, một cái gì làm hiển hiện lại cả cuộc đời người Mèo (Mông) trung thực, chí tình, dù gian nan thế nào bao giờ cũng đợi cán bộ, đợi bộ đội, bao giờ cũng mong anh em trở lại [...]. Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi [...]. Ý thiết tha với đề tài này là một quyết định. Vì thế tôi viết Truyện Tây Bắc”.

 

Truyện Tây Bắc gồm ba truyện (Cứu đất cứu mường, Mường Giơn và Vợ chồng A Phủ) viết năm 1953, ngay sau chuyến thâm nhập thực tế Tây Bắc của tác giả. Tập truyện này được tặng Giải Nhất, Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1954-1955.

 

Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn đặc sắc nhất trong tập Truyện Tây Bắc, cũng là một trong những truyện ngắn hay nhất của văn xuôi Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp. Tác phẩm là bức tranh chân thực về cuộc sống và số phận đau khổ của người nông dân nghèo miền núi dưới ách áp bức của các thế lực phong kiến và thực dân, đồng thời là một bài ca về sức sống và khát vọng tự do của con người miền núi, là hình ảnh con đường giải phóng và cuộc đổi đời của họ khi đến với cách mạng.

 

Dưới đây chỉ phân tích nửa đầu của truyện: quãng đời ở Hồng Ngài của Mị và A Phủ, đây cũng là phần thành công hơn của tác phẩm. Trong phần này, tác giả tập trung giới thiệu và miêu tả về cuộc sống và số phận của hai nhân vật chính: Mị và A Phủ, thể hiện sức sống tiềm tàng và sự gặp gỡ của hai con người cùng một cảnh ngộ nô lệ ấy.

 

Mị xuất hiện ngay trong mấy dòng đầu của truyện. Tô Hoài sử dụng thủ pháp miêu tả phác hoạ ngoại hình để gợi mở nội tâm nhân vật và đặt nhân vật trong sự đối lập với khung cảnh xung quanh: giữa cảnh giàu có, tấp nập của nhà thống lí Pá Tra "nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng" thì Mị luôn được đặt ở vị trí cạnh tảng đá và bên tàu ngựa. Mị như gắn vào với những cảnh vật ấy, tạo nên một cảnh sống riêng, im lìm, tăm tối, cực nhọc của kiếp sống đọa đày, nó phơi bày ra bên cạnh cái giàu sang, tấp nập của nhà thống lí, nhưng chính nó là một phần trong bức tranh trọn vẹn của nhà thống lí. Chân dung nhân vật được khắc họa bằng một nét đậm: "Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi".

 

Sau khi đã giới thiệu nhân vật bằng một vài nét phác hoạ chân dung gây chú ý cho người đọc, tác giả mới kể lại câu chuyện Mị về làm dâu gạt nợ cho nhà Pá Tra.

 

Mị là cô gái trẻ, đẹp và giàu lòng yêu đời, lại chăm chỉ và hiếu thảo. Mị đang sống những ngày tươi đẹp của tuổi yêu đương, dù trong cảnh nghèo khó. Không ít chàng trai đã theo đuổi cô gái nghèo ấy. Mùa xuân đến, Mị đang sống trong niềm sung sướng hồi hộp chờ nghe tiếng sáo quen thuộc của người yêu. Thế nhưng chính trong một đêm xuân như thế, Mị đã bị bắt cóc về làm dâu trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Nguyên do chỉ vì món nợ truyền kiếp của bố mẹ Mị. Ngày trước hai người lấy nhau, không có tiền cưới, phải đến vay tiền thống lí, bố của Pá Tra. Mị phải mang món nợ truyền kiếp ấy như một thứ "tội tổ tông" của người nghèo, từ lúc ra đời! Tô Hoài đã tố cáo một hình thức bóc lột phổ biến của bọn phong kiến ở miền núi cũng như ở miền xuôi: nạn cho vay nặng lãi. Nó đã cột chặt bao nhiêu người nghèo vào số phận nô lệ, phụ thuộc vào bọn chủ nợ giàu có.

 

Trong thời gian đầu bị bắt về làm vợ A Sử, Mị đã phản kháng quyết liệt: hàng mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc, rồi Mị định tự tử bằng lá ngón. Nhưng có chết thì món nợ vẫn còn. Bố già còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ. Thế là Mị không đành lòng chết.

 

Những năm tháng làm dâu trong nhà Pá Tra là một chuỗi dài triền miên những cực nhọc vất vả nối tiếp không dứt đến mức dường như đã làm tê liệt cả ý thức về bản thân và những mong muốn thay đổi số phận ở Mị. "Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi". Củng cố thêm cái ách áp bức nặng nề ấy còn là sự áp chế về tinh thần bởi mê tín, thần quyền. Mị bị ràng buộc bởi ý nghĩ rằng bố con Pá Tra đã "trình ma" mình là người nhà nó thì chỉ còn biết ở cho đến lúc chết rũ xác trong nhà nó mà thôi. Chân dung Mị được khắc đậm một nét này: "cúi mặt không nghĩ ngợi nữa", "Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như một con rùa nuôi trong xó cửa", lúc nào "cũng cúi mặt buồn rười rượi". Căn buồng Mị nằm lúc nào cũng âm u, chạng vạng với cái cửa sổ "một lỗ vuông bằng bàn tay", là một biểu tượng gắn với cuộc đời nhân vật. Cái cửa sổ "Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi". Thậm chí Mị cũng không có ý nghĩa vẻ cái chết nữa: "Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa". Mị sống như một cái bóng vật vờ, sống mà như đã chết, không còn cả ý thức về thời gian nữa. Mị không còn nhớ mình về làm dâu nhà Pá Tra đã bao nhiêu năm. Với Mị, sự chuyển đổi của thời gian, trong một ngày hay trong một năm, cũng chẳng gợi cho cô một ấn tượng, cảm xúc gì, vẫn chỉ là một cái màu nhờ nhờ trăng trắng "không biết là sương hay là nắng", cái sắc màu mờ mờ đùng đục của những hoàng hôn đằng đẵng buồn tẻ và tê tái.

 

Ở đoạn đầu của truyện, cuộc sống của Mị bị giam hãm trong cái không gian chật hẹp và tù đọng của nhà Pá Tra, với một nhịp điệu buồn tẻ, nặng nề của những công việc khổ sai lặp di lặp lại, trong một thời gian ngưng đọng như không dĩ vãng và không tương lai. Lời trần thuật với nhịp chậm, trầm lặng tạo ra giọng điệu có chiều sâu thấm đượm nỗi xót xa và thương cảm.

 

Phải chăng tâm hồn Mị đã hoàn toàn nguội lạnh? Cô Mị một thời trẻ đẹp, khát khao hạnh phúc đã hoàn toàn cam chịu thân phận nô lệ, sống mà như đã chết. Không, ngòi bút của Tô Hoài không chỉ phơi bày cái đen tối, ảm đạm của cuộc đời mà còn thiết tha hướng tới phía sự sống và ánh sáng. Ngòi bút của nhà văn đã tìm sâu vào tận cùng của ý thức và trong đáy sâu tiềm thức nhân vật để khơi bừng lên chút ánh sáng và hơi ấm của niềm ham sống khát khao hạnh phúc.

 

Sự thức tỉnh đời sống ý thức của Mị trước hết là nhờ tác động của hoàn cảnh, một hoàn cảnh khá "điển hình" - đấy là mùa xuân về trên miền núi cao Tây Bắc. Mùa xuân gợi dậy ở con người, ở thiên nhiên sức sống tiềm tàng và những khát vọng. Người Mông ăn Tết khi ngô lúa đã gặt xong, mùa xuân có thêm niềm vui thu hoạch mùa màng. Cái Tết năm ấy đến vào lúc gió và rét dữ dội, nhưng vẫn không ngăn được những sắc màu của mùa xuân trong thiên nhiên và cả ở con người. Sự sống của tạo vật và con người như được mùa xuân khơi dậy, làm bừng tỉnh. Và thời điểm để ngọn lửa sống trong lòng Mị bừng lên đã đến. Đấy là một "đêm tình mùa xuân". Tiếng sáo gọi bạn tình cứ thiết tha, bồi hồi "tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng". Với Mị, tiếng sáo gọi bạn là biểu tượng lôi cuốn nhất của mùa xuân, của khát vọng hạnh phúc: "Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị" hết núi này sang núi khác. Cái nồng nàn của đêm xuân lại được tăng thêm bởi bữa rượu ngày Tết, trong tiếng chiêng đánh ầm ĩ và những người lên đồng, người hát: "Ngày Tết, Mị cũng uống rượu, Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say...". Chính trong một trạng thái đã được kích thích bởi men rượu, bởi những âm thanh náo động của bữa cơm cúng ma trong nhà Pá Tra và sự lôi cuốn của tiếng sáo gọi bạn ngoài đường, Mị đã vượt ra khỏi tâm trạng thờ ơ, nguội lạnh lâu nay của mình. Dấu hiệu đầu tiên là Mị sống lại với những hồi tưởng về những ngày xuân quá khứ, những kỉ niệm đẹp về ngày trước, những ngày hạnh phúc ngắn ngủi của tuổi trẻ. Bằng việc nhớ lại quá khứ, Mị đã vượt qua tình trạng sống "phi thời gian", sống mà như đã chết bấy lâu nay, rồi Mị sống lại với niềm ham sống của tuổi trẻ: "Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi". Sức sống bấy lâu nay bị đè nén, tưởng đã tắt lịm, thì nay bỗng bật trào dậy. Phản ứng đầu tiên đến với Mị là ý nghĩ: "Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa". Ý nghĩ về cái chết lúc này là sự phản kháng với hoàn cảnh, nó chứng tỏ rằng Mị đã ý thức lại được tình cảnh đau xót dai dẳng của mình. Trong khi ấy thì tiếng sáo - biểu tượng của khát vọng tình yêu và tự do - cứ theo sát diễn biến tâm trạng của Mị. Nó là ngọn gió thổi bùng lên đốm lửa trong lòng Mị. Tiếng sáo từ chỗ là một hiện tượng ngoại cánh ("tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường") đã xâm nhập thế giới nội tâm của Mị, trở thành một hiện hữu ở trong tâm linh nhân vật: "Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo".

 

Đến đây đã xảy ra bước phát triển quyết định: từ những sôi sục trong tâm tư, Mị bước tới hành động. Đầu tiên là một hành động có nhiều ý nghĩa: "Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng". Đấy là một hành động của sự thức tỉnh. Mị thắp sáng ngọn đèn trong càn phòng vốn âm u, mờ mịt của mình, cũng tức là Mị thắp lên một ánh sáng trong cuộc đời tăm tối triền miên của mình trong nhà Pá Tra. Và hành động này thúc đẩy hành động tiếp theo, như những đợt sóng tiếp nhau. Dường như không đếm xỉa gì đến những trói buộc khắt khe của nhà Pá Tra, đến A Sử, Mị tự mình hành động như một con người tự do, theo tiếng gọi của lòng mình: quấn lại tóc, rút lấy cái váy hoa, sửa soạn đi chơi Tết.

 

Giữa lúc lòng ham sống trỗi dậy mạnh mẽ thì nó bị dập xuống phũ phàng: A Sử bước vào, thản nhiên, lầm lì, trói đứng Mị vào cây cột nhà: tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột, rồi y "tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại". Cái kĩ càng, rành rẽ của từng động tác biểu hiện một sự tàn ác đến thản nhiên của A Sử.

 

Suốt cái đêm bị trói vào cột ấy, Mị đã sống trong sự giằng xé giữa niềm khao khát sống tự do và thực tại nghiệt ngã. Ban đầu, Mị như quên những vòng dây trói và những đau đớn thể xác mà vẫn sống với tiếng sáo, "tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi" ở ngoài kia, đến nỗi Mị "vùng bước đi". Nhưng rồi những vòng dây trói thít chặt và nỗi đau đớn đến tê dại toàn thân đã kéo Mị trở về với thực tại. Thay thế cho tiếng sáo gọi bạn, chỉ còn "tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa". Thực tại phũ phàng đã bóp chết những khao khát tự do và hạnh phúc ở Mị.

 

Ngòi bút của Tô Hoài đã thấm nhuần tinh thần nhân đạo, thể hiện ở niềm tin và sự trân trọng niềm khát khao vươn lên đời sống tự do và hạnh phúc của những con người bị đọa đày đau khổ. Đấy là sự tiếp nối tinh thần nhân đạo truyền thống trong văn học dân tộc.

 

Đến đây, giữa lúc xung đột đã dẫn đến căng thẳng, tác giả tạm thời mở nút cho tình tiết này bằng sự xuất hiện của A Phủ trong cuộc đánh nhau của toán thanh niên làng bên với A Sử. Đây cũng là lối giới thiệu nhân vật một cách tự nhiên và gây sự chú ý ngay từ đầu.

 

Cũng như Mị, A Phủ được tác giả giới thiệu bằng sự xuất hiện đột ngột, gây chú ý cho người đọc, rồi mới kể về lai lịch của anh. A Phủ xuất hiện trong cuộc đánh nhau của trai làng bên với bọn A Sử.

Lũ phá đám ta đêm qua đây rồi.

 

- A Phủ đâu? A Phủ đánh chết nó đi!

 

Một người to lớn chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Con quay gổ ngát lăng vào giữa mặt. Nó vừa kịp bưng tay lên. A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp". A Phủ xuất hiện đối đầu với A Sử thật hiên ngang và trận đòn đánh mới áp đảo và hả hê làm sao! (Chú ý câu văn mô tả cảnh này bằng một loạt từ chỉ hành động với nhịp nhanh, mạnh, dồn dập: chạy vụt ra, vung tay ném, xộc tới nắm, kéo đập đầu, xé, đánh tới tấp).

 

A Phủ là một thanh niên nghèo, suốt đời đi làm thuê làm mướn, không có ruộng, không có cả đến cái vòng bạc đeo cổ để đi chơi Tết. Cha mẹ đã chết cả trong một trận dịch đậu mùa, A Phủ đã từng bị bắt bán xuống vùng người Thái,... Nhưng chính cuộc sống cùng cực ấy đã hun đúc thêm ở A Phủ một sức sống mạnh mẽ, lòng ham chuông tự do và một tính cách thật gan góc, cùng với một tài năng lao động đáng quý. A Phủ thạo và ham thích những công việc lao động nặng nhọc mà khó khăn, nguy hiểm: "biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo", "Đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng". A Phủ là đứa con của núi rừng tự do. Cuộc sống phóng khoáng, ưa tự do, gần gũi thiên nhiên và chất phác của A Phủ cũng là một nét tính cách đặc trưng của người Mông.

 

Việc A Phủ bị bắt làm người ở gạt nợ càng làm tăng thêm sức tố cáo của tác phẩm: một chàng trai khoẻ mạnh, gan góc, vốn không nợ nần gì nhà Pá Tra, lại lao động giỏi, sống tự do như chim trời giữa núi rừng, vậy mà cuối cùng cũng không thoát khỏi ách áp bức của chúa đất, phải rơi vào thân phận kẻ nô lệ suốt đời trong nhà Pá Tra. Hơn thế nữa, cho đến cả đời con, đời cháu cũng vậy, bao giờ trả hết nợ mới thôi !

 

Cảnh bọn chức việc trong làng xử kiện A Phủ lại thêm một bức tranh cụ thể sống động, giàu sức tố cáo vé một tập tục là hiện thân của ách áp chế kiểu trung cổ ở miền núi. Cuộc xử kiện diễn ra trong khói thuốc phiện mù mịt "tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp" và "Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kể, chửi, lại hút", cứ thế suốt từ trưa cho đến hết đêm. Còn A Phủ gan góc, quỳ chịu đòn chỉ im như tượng đá.

 

Sự gặp gỡ của hai người cùng cảnh ngộ nô lệ

 

Mị và A Phủ cùng cảnh nô lệ trong nhà Pá Tra, nhưng không phải họ đã gặp gỡ nhau ngay được. Nhưng rồi một cảnh ngộ xảy đến với A Phủ. A Phủ đi chăn bò để hổ bắt mất một con. Pá Tra trói đứng A Phủ vào cọc ở giữa nhà, một tình cành bị trói chờ chết như năm nào Mị đã phải chịu. Lúc đầu, nhìn A Phủ bị trói, Mị vẫn chưa có một suy nghĩ gì. Nào phải đâu Mị là người nhẫn tâm, chỉ vì những hành động tội ác trong nhà Pá Tra là chuyện diễn ra hằng ngày và Mị cũng chỉ là một nạn nhân bất lực mà thôi. Hơn nữa, Mị vẫn đang chìm trong trạng thái sống gần như vô cảm. Nhưng đến một đêm, khi Mị trở dậy thổi lửa sưởi, "Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại". Chính dòng nước mắt ấy của A Phủ, dòng nước mắt tuyệt vọng, đau đớn của người trai Mông gan góc, quả cảm đã đánh thức đời sống ý thức và tình cảm ở Mị. Mị bừng tinh, thoát khỏi tình trạng "vô cảm", mà dấu hiệu đầu tiên của sự thức tính ấy cũng lại là sự hồi tưởng. Kí ức sống dậy, Mị nhớ lại những nỗi đau đớn khi bị trói đứng vào cột. "Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được". Mị nhớ đến một người đàn bà khác đã từng bị trói đến chết. Từ sự xót thương người đồng cảnh ngộ, ở Mị đã hình thành mối đồng cảm giai cấp tự nhiên. Ý nghĩ cứu A Phủ đã mạnh hơn cả nỗi lo sợ cho chính mình. Từ tình cảm và ý nghĩ ấy, ắt dẫn tới hành động quyết định của Mị: cắt dây trói cứu A Phủ. Cắt dây trói cứu A Phủ, Mị cũng đã tự cắt sợi dây trói buộc đời mình với nhà Pá Tra.

 

Để tự cứu mình, Mị đã chạy theo A Phủ thoát khỏi địa ngục nhà Pá Tra. Đến dây cái vòng trói buộc cuộc đời Mị và A Phủ đã được tháo gỡ nút thứ nhất. Mặc dù đây chỉ là những hành động đấu tranh tự phát, nhưng cũng chính là từ những khát vọng tự do và sự phản kháng mạnh mẽ ấy mà họ sẽ nhanh chóng đến với cách mạng, để giải phóng triệt để cho số phận của mình và của những người nghèo khổ khác.

 

Thành công của truyện Vợ chồng A Phủ trước hết là ở cốt truyện mang ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và con đường giác ngộ của người nông dân miền núi, cũng như của nhân dân lao động nói chung trong sự gặp gỡ cách mạng. Mô típ cốt truyện này rất tiêu biểu cho các tác phẩm văn xuôi trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp, cũng như cả trong văn học từ năm 1945 đến 1975. Nhưng tác phẩm gây được ấn tượng sâu sắc là ở nghệ thuật xây dựng nhân vật. Nhân vật vừa mang tính tiêu biểu cho tầng lớp, giai cấp vừa có được những nét cá tính khá rõ. A Phủ thì mạnh mẽ, gan góc mà bộc trực, cả tin, chất phác. Mị giàu sức sống nhưng trầm lắng hơn, có một đời sống nội tâm sôi nổi dưới vẻ ngoài lặng lẽ.

 

Phân tích Vợ chồng A Phủ ngắn gọn - Mẫu 2

 

“Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Tô Hoài. Truyện ngắn là kết quả của 8 tháng tham gia chiến dịch Tây Bắc, sống và gắn bó nghĩa tình với đồng bào dân tộc của nhà văn. Có thể nói, “Vợ chồng A Phủ” là bức tranh chân thực về cuộc sống sinh hoạt của người dân lao động vùng núi cao dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân phong kiến miền núi.

 

Về nội dung, “Vợ chồng A Phủ” chính là lời tố cáo đanh thép chế độ thực dân nửa phong kiến. Truyện đã phản ánh chân thực mâu thuẫn giai cấp căng thẳng và cuộc sống tăm tối của nhân dân lao động nghèo ở miền núi Tây Bắc. Tác phẩm mở đầu bằng lời kể về hoàn cảnh nhân vật Mị: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa.

 

Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Vẻ âm thầm, buồn bã cùng công việc vất vả của Mị hoàn toàn đối lập với sự giàu sang, tấp nập của gia đình nhà thống lý. Bằng cách mở đầu đầy nghịch lí như vậy, Tô Hoài gợi được sự tò mò nơi độc giả đồng thời cũng hé mở số phận đau khổ của Mị trong nhà chồng.

 

Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị là một cô gái H'mông xinh đẹp, tài hoa, hiếu thảo. Tiếng sáo của Mị khiến trai bản “đứng nhẵn cả chân vách buồng”. Nhưng, chỉ vì nghèo, không trả nổi tiền cho nhà thống lí nên Mị đã bị bắt về làm dâu gạt nợ. Từ đây, bao nhiêu hi vọng về hạnh phúc, về tương lai của cô như vụt tắt. Là con nợ, trả nợ xong là thôi nhưng đằng này Mị còn là một cô con dâu. Một cổ 2 gông, tất cả đã đẩy cuộc đời Mị vào vòng tuần hoàn của khổ đau.

 

Khi mới bị bắt, đêm nào Mị cũng khóc, có lần cô trốn về nhà định ăn lá ngón tự tử. Qua nhưng chi tiết này, ta thấy được tinh thần phản kháng quyết liệt, không chấp nhận số phận của Mị. Quyết định tìm đến cái chết của cô không phải là biểu hiện của sự đầu hàng, buông xuôi. Đó là tiếng nói phản kháng đầy mạnh mẽ của một con người luôn khát khao tự do, khát khao hạnh phúc.

 

Đối với Mị, làm dâu nhà thống lí Pá Tra còn đáng sợ hơn cái chết, bởi vì ở đó, cô không được đối xử như một con người, không được lên tiếng quyết định cuộc đời mình, không có tự do cũng như hạnh phúc. Nhưng vì cha, Mị lại chấp nhận tiếp tục sống và chịu đựng: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa...”.

 

Từ một người con gái đầy sức sống, Mị giờ đây “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Hình ảnh căn buồng Mị nằm với chiếc “cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng” như một nhà giam không những giam hãm thân xác mà còn vây khốn tâm hồn Mị. Đó cũng là hiện thực đầy tàn khốc của những người dân nghèo dưới ách thống trị của bọn địa chủ phong kiến. Họ không chỉ bị tước đoạt tự do thân thể, mà tinh thần họ cũng vướng phải gông xiềng của lề thói, hủ tục.

 

Giữa bức tranh tăm tối ấy, đêm tình mùa xuân cùng tiếng sáo gọi bạn réo rắt như thổi một làn gió mới làm bùng lên ngọn lửa yêu thương, khát vọng sống tiềm tàng ngỡ đã vụt tắt. Tiếng sáo được Tô Hoài miêu tả nhiều lần với nhiều tầng bậc khác nhau: “Ngoài đầu núi…thổi”, “Tai Mị… gọi bạn”, “Trong đầu… sáo”, “Tiếng sáo… chơi”. Tiếng sáo gợi nhớ về kỉ niệm, tiếng sáo thôi thúc Mị tìm đến niềm hạnh phúc yêu thương.

 

Thế nhưng, A Sử xuất hiện và giết chết khát vọng sống trong Mị, hắn “lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa”. Sự lạnh lùng, tàn ác của A Sử đối với Mị không phải là một trường hợp cá biệt, trước đó, có người đàn bà cũng đã bị trói đến chết trong nhà này. Đến đây, bức tranh về tội ác dã man của bọn địa chủ phong kiến được hiện lên rõ nét. Đối với chúng, mạng sống con người chẳng khác gì con trâu, con ngựa.

 

Bên cạnh hình tượng nhân vật Mị là A Phủ, một thanh niên mồ côi cha mẹ từ nhỏ, lao động giỏi “chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê”. Vì đánh con quan, A Phủ bị phạt vạ và từ đó trở thành nô lệ cho nhà thống lí. Có thể thấy, dù là một chàng trai gan góc, mạnh mẽ, nhưng cuối cùng, A Phủ cũng như Mị, không thể thoát khỏi bàn tay tội ác của bọn địa chủ phong kiến, ở đây đại diện là nhà thống lí Pá Tra.

 

Ở trong nhà thống lí Pá Tra, sinh mạng người dân nghèo không bằng cả súc vật. Chỉ vì làm mất bò, A Phủ bị trói đứng giữa trời đông lạnh lẽo. Và giọt nước mắt của anh là giọt nước mắt của sự đắng cay, sự cô độc, bất lực và tuyệt vọng. Đây là chi tiết vô cùng đắt giá. Giọt nước mắt ấy thể hiện tâm trạng tuyệt vọng của A Phủ đồng thời nó cũng làm dậy lên niềm đồng cảm, xót thương và sức sống ngỡ đã chai sạn trong Mị.

 

Tình cảnh của A Phủ làm Mị nhớ lại đêm mùa xuân mà cô bị A Sử trói nơi cột nhà. Cô chợt cảm thấy xót thương cho chàng trai tội nghiệp kia, xót thương cho tình cảnh của chính mình. Dòng nước mắt của A Phủ như thổi bùng khát vọng sống trong Mị mà lâu nay bị lớp tro tàn phong kiến phủ kín. Hành động Mị cắt dây trói cứu thoát A Phủ và chạy khỏi nhà thống lí Pá Tra là sự trỗi dậy của sức sống tiềm tàng, khao khát tự do hạnh phúc của con người bị áp bức

 

Có thể nói, bằng tài năng tuyệt vời của mình, Tô Hoài đã xây dựng nên những hình tượng nhân vật vô cùng chân thực và sống động. Nếu Mị là hình tượng tiêu biểu cho phụ nữ miền núi nước ta trong thời kì trước Cách mạng đến những năm kháng chiến chống Pháp thì A Phủ mang nét đẹp tiêu biểu cho những thanh niên dân tộc miền núi Tây Bắc: thật thà, chất phát, khoẻ mạnh tuy bị đẩy vào số phận khổ đau nhưng không nguôi khát vọng tự do.

 

Bên cạnh bức tranh hiện thực về tội ác của giai cấp thống trị cùng cuộc sống tăm tối của nhân dân, tác phẩm còn là một bài ca về tình người, bài ca về khát vọng sống, khát vọng tự do. Hành động cắt đứt dây trói, bước chân gấp gáp chạy khỏi nhà thống lí và đứng dưới là cờ Cách mạng của Mị và A Phủ chính là sự vùng lên tất yếu của những con người không đầu hàng số phận. Tác giả bày tỏ sự đồng cảm, xót thương nhưng cũng đầy tự hào, ngợi ca khi viết về họ và cuộc đời của họ. Đó cũng chính là giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm này,

 

Về nghệ thuật, tác phẩm cho thấy tài năng trong việc dẫn chuyện và miêu tả tâm lí nhân vật của Tô Hoài. Đặc biệt, dưới ngòi bút miêu tả bậc thầy, Tô Hoài cũng đã phác họa cho người đọc một cuộc xử kiện sống động và giàu sức tố cáo, từ đó vạch trần sự áp bức dã man của bọn thống trị miền núi. Qua giọng kể khi thì khách quan, khi thì nhập vào nhân vật, cùng ngôn ngữ sinh động, chọn lọc, có sáng tạo, bức tranh về thiên nhiên và cuộc sống sinh hoạt của người dân Tây Bắc đã được hiện lên vô cùng chân thật và xúc động.

 

Tóm lại, có thể khẳng định, “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm mẫu mực nhất khi viết về thiên nhiên và con người miền núi. Qua “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã khẳng định tên tuổi của mình trong văn đàn đồng thời ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc bao thế hệ.

 

Phân tích Vợ chồng A Phủ - Mẫu 3

 

Với vốn hiểu biết phong phú về phong tục, tập quán của người dân miền núi cùng lối trần thuật hóm hỉnh, sâu sắc, chân thực của người từng trải và sự giàu có trong vốn từ vựng, những sáng tác của Tô Hoài luôn để lại dấu ấn đậm sâu và sức sống lâu bền trong lòng bạn đọc. Và có thể nói truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” sáng tác năm 1952, in trong tập Truyện Tây Bắc là một trong số những sáng tác tiêu biểu của Tô Hoài.

 

Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” đã dựng lại một cách chân thực, sâu sắc bức tranh số phận, cuộc đời của hai nhân vật Mị và A Phủ.

 

Ngay từ những dòng đầu của tác phẩm, Tô Hoài đã khéo léo để nhân vật Mị xuất hiện một cách thật tự nhiên nhưng đã để lại ấn tượng đậm sâu trong lòng bạn đọc. “Ai đi xa về, có việc ghé qua nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”. Thêm vào đó tác giả đã tạo ra một hoàn cảnh đối lập giữa nét mặt “lúc nào cũng buồn rười rượi của Mị” với sự giàu có, sung túc của nhà thống lí. Với tình huống đối nghịch ấy tác giả đã phần nào hé mở cho người đọc về cuộc đời của Mị trong những tháng ngày làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra.

 

Trước khi trở thành con dâu gạt nợ của nhà thống lí Pá Tra, Mị là cô gái Mèo xinh đẹp, trẻ trung, hiếu thảo và có tài thổi sáo. Chắc hẳn, những ai đã từng một lần đọc Vợ chồng A Phủ sẽ chẳng thể nào quên được những câu văn tác giả miêu tả vẻ đẹp ngoại hình và tài năng của Mị. Mị đẹp đến nỗi “trai làng đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị” rồi “có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Không chỉ xinh đẹp mà Mị còn có tài “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo vậy”. Đặc biệt, ở Mị chúng ta còn nhận thấy vẻ đẹp trong tận sâu tâm hồn, tấm lòng của Mị. Mị là một cô gái hồn nhiên, yêu đời và có lòng hiếu thảo với cha. Lời nói của Mị với bố“con phải làm nương giả nợ thay cho bố” đã thể hiện rõ tấm lòng hiếu thảo của Mị. Như vậy, Mị là một cô gái vừa đẹp người vừa đẹp nết vừa tài năng, những tưởng một cô gái như thế sẽ có được hạnh phúc. Song với Mị thì hoàn toàn ngược lại khi Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra.

 

Mị là nạn nhân của chế độ cho vay nặng lãi, trở thành “con dâu gạt nợ” nhà thống lí Pá Tra vì món nợ truyền kiếp của gia đình từ hàng mấy năm nay. Mị trả món nợ của gia đình bằng chính tuổi trẻ, sức khỏe và hạnh phúc của bản thân mình. Trở thành con dâu gạt nợ cũng chính là lúc Mị trở thành công cụ lao động của nhà thống lí Pá Tra. Mị như một cỗ máy, làm việc quần quật suốt ngày suốt đêm, từ ngày này đến ngày khác, năm này qua năm khác “Mị như một cỗ máy làm việc suốt ngày, suốt tháng, suốt năm”, “Mị tưởng mình là con trâu con ngựa. Mị nghĩ mình cũng không bằng con trâu, con ngựa…”. Thêm vào đó, Mị còn bị còn bị A Sử đánh đập tàn nhẫn, thô bạo. Có lẽ, đọc toàn bộ tác phẩm người đọc sẽ không thể nào có thể quên được những trận đòn roi đến rợn người mà Mị đã phải gánh chịu. Không chỉ bị bóc lột về mặt thể xác, Mị còn bị hành hạ về mặt tinh thần. Sống trong nhà Pá Tra, Mị “sống lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, Mị tị tê liệt về mặt tinh thần, sống vô cảm và lặng lẽ. Dường như giờ đây Mị đã bị tê liệt hoàn toàn về mặt tinh thần, sống không chút hi vọng, không mảy may sức sống.

 

Nhưng rồi, trong những ngày Tết đến ở Hồng Ngài, trong đêm tình mùa xuân ấy, sức sống trong Mị đã lần nữa trỗi dậy mạnh mẽ trong cô. Hồng Ngài những ngày Tết đến, xuân về thật đẹp và đặc biệt là âm thanh tiếng sáo gọi bạn đi chơi trong đêm tình mùa xuân mới thật tuyệt biết bao. Tiếng sáo ấy là âm thanh đặc trưng nơi núi rừng Tây Bắc vào mùa xuân, nó là tiếng gọi của tình yêu, tiếng gọi của hạnh phúc và để rồi, tiếng sáo dìu dặt, thiết tha ấy đã thấu rọi, xuyên qua tâm hồn vốn đã bị đóng băng bấy lâu nay ở Mị để đồng vọng với khát vọng tình yêu, khát vọng sống đang trỗi dậy trong cô. Mị đã có những hành động đầu tiên, báo hiệu cho sự trỗi dậy của sức sống trong Mị. Nếu như trước đây, Mị “sống lùi lũi như con rùa trong xó cửa” thì hôm nay, Mị đã nhẩm thầm lời bài hát, “những lời thì thầm ấy như những lời thì thầm của mùa xuân”, nó chính là động lực, là nguồn cội để rồi cuộc đời Mị từ đây bước sang một trang mới. Rồi Mị uống rượu – “uống ừng ực từng bát” – dường như Mị muốn uống để quên đi hết bao sầu muộn, bao giận dữ, khổ đau trong những tháng ngày đã qua. Những ý niệm về thời gian dần dần sống lại trong Mị, cô nhớ về những kỉ niệm thời trẻ và sống với hiện tại của chính mình. “Mị thấy mình phơi phới trở lại, Mị vẫn còn trẻ lắm”, Mị muốn được đi chơi mùa xuân. Như vậy, đến đây, sức sống, khát khao sống trong Mị đã trỗi dậy nhưng rồi sự xuất hiện của A Sử đã buộc Mị không thể thực hiện khát khao đi chơi trong đêm tình mùa xuân của mình. A Sử trói đứng Mị, đánh đập Mị song A Sử chỉ trói được thể xác của Mị chứ không thể nào trói buộc được tâm hồn, khao khát của cô. Dường như, Mị đã quên mất việc mình bị trói đứng, quên đi nỗi đau về mặt thể xác để tâm hồn Mị vẫn hòa cùng với tiếng sáo của những cuộc chơi. Như vậy, sức sống mãnh liệt trong Mị đã trỗi dậy, vượt qua cả nỗi đau về mặt thể xác.

 

Đặc biệt, sự hồi sinh của Mị thể hiện rõ nét qua việc Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ. Thoạt đầu, khi nhìn thấy A Phủ bị trói đứng, Mị vẫn thản nhiên ngồi sưởi tay bên bếp lửa. Mị thản nhiên, dửng dưng cũng đúng thôi bởi với Mị nói riêng và với những người trong nhà thống lí Pá Tra nói chung, việc một con người bị trói đứng đâu có gì là lạ, là khác thường đâu. Nhưng rồi, Mị đã hoàn toàn thay đổi khi nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ, giọt nước mắt ấy đã một lần nữa đánh thức sức sống trong Mị, đánh thức tình thương người và thương mình ở cô. Để rồi, Mị nảy ra ý định cứu A Phủ, nhưng rồi Mị lại thấy sợ. Tuy nhiên, lòng thương người, thương mình và khát khao sống trong Mị đã lớn hơn tất cả, chiến thắng mọi nỗi sợ hãi để Mị đi đến quyết định cắt dây cởi trói cho A Phủ rồi Mị cùng A Phủ chạy trốn khỏi Hồng Ngài. Hành động ấy của Mị đã chứng minh quá trình hồi sinh của Mị, Mị đã trở lại là chính mình với một khát vọng sống mãnh liệt.

 

Cùng với Mị, trong tác phẩm, Tô Hoài đã xây dựng thành công số phận nhân vật A Phủ. Từ nhỏ, A Phủ đã mồ côi cha mẹ, sống và lớn lên trong tình yêu thương, sự che chở, đùm bọc của dân làng. Lớn lên, A Phủ trở thành chàng trai khỏe mạnh “A Phủ khỏe, chạy nhanh như con ngựa, con gái trong làng nhiều người mê”. Không chỉ khỏe mạnh mà A Phủ còn là người nhanh nhẹn, việc gì cũng biết làm, lúc còn bé, đi làm cho nhà người, chẳng mấy chốc mà A Phủ “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”, rồi đến lúc phải đi ở cho nhà Pá Tra, A Phủ càng chứng tỏ được sức lực của mình “đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò nương gò rừng”. Đồng thời, A Phủ là người có tính cách gan bướng, mạnh mẽ, bị bắt xuống đồng thấp lại trốn lên đồng cao.

 

Số phận của A Phủ cũng giống như Mị, đều phải trở thành người ở gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. A Phủ trở thành người ở để gạt nợ chỉ vì A Phủ đánh con quan và thua trong một vụ kiện đầy bất công, vô lí. Thêm vào đó, khi trở thành người ở gạt nợ, A Phủ còn không có giá trị bằng một con bò, chỉ vì làm mất một con bò của nhà thống lí mà A Phủ bị trói đứng, bị hành hạ về mặt thể xác. Và rồi, trong chính lần bị trói đứng ấy, A Phủ đã gặp Mị và được Mị cắt dây cởi trói rồi cả hai cùng nhau chạy trốn khỏi Hồng Ngài.

 

Tóm lại, với ngòi bút trần thuật hấp dẫn, độc đáo, vốn từ vựng phong phú và sắc sảo, Vợ chồng A Phủ đã dựng lại một cách chân thực và sâu sắc số phận của hai nhân vật Mị và A Phủ. Đồng thời, qua số phận hai nhân vật cũng cho chúng ta thấy rõ giá trị hiện thực của tác phẩm về cuộc sống và số phận bi đát của những người lao động miền núi và về bộ mặt tàn ác của giai cấp thống trị. Thêm vào đó nó cũng cho ta thấy chiều sâu nhân đạo của tác phẩm, đó chính là lời ngợi ca, trận trọng những giá trị, khát vọng sống tốt đẹp của con người và lời lên án, tố cáo sự tàn ác, vô nhân tính của giai cấp thống trị.

 

Phân tích Vợ chồng A Phủ - Mẫu 4

 

Tô Hoài là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn học hiện đại Việt Nam đồng thời là một tấm gương cho con người về sức sáng tạo. Cách kể chuyện của Tô Hoài có sức hấp dẫn riêng ở lối kể hóm hỉnh với lời văn giản dị tinh tế mà giàu chất thơ. Trong đó, “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm ghi lại tên tuổi cũng như dấu ấn văn xuôi của nhà văn Tô Hoài.

 

“Vợ chồng A Phủ’’ được rút ra trong tập “Tây Bắc” kể về cuộc sống của Mị và A Phủ trong nhà thống lý Pá Tra làm nô lệ. Mị trở thành dâu nhà thống lý, phải sống một cuộc sống không giống con người. Ở đó, Mị không chỉ bị giam cầm về thể xác mà còn bị giam cầm cả về tâm hồn của mình. Mị xuất hiện trong lời kể của nhà văn Tô Hoài trong khung cảnh của cuộc sống giàu sang nhưng lại đối lập với tâm thế bên trong con người Mị là mặt buồn rười rượi. Dưới ngòi bút của Tô Hoài gieo vào lòng người đọc những cảm xúc mãnh liệt về số phận con người mà cụ thể là nhân vật Mị. Sự xuất hiện của Mị giúp người đọc hình dung ra số phận của những kiếp người lao động dưới ách thống trị của bọn phong kiến chúa đất.

 

Bằng kết cấu hồi tưởng, trần thuật ở hiện tại sau đó ngược về quá khứ Tô Hoài tạo được những dấu ấn cá nhân riêng qua cách kể chuyện đầy linh hoạt của mình. Trước khi về làm dâu nhà thống lý Pá Tra Mị là một cô gái xinh đẹp, nết na, có tài thổi sáo. Đặc biệt, Mị còn là cô gái rất giàu lòng tự trọng yêu đời và tràn đầy sự sống, luôn muốn làm chủ và muốn tự định đoạt cuộc đời của mình. Mị trở thành nỗi niềm ao ước của nhiều trai bản trong làng. Thế nhưng cuộc đời lại xô đẩy Mị, trái lại với tất cả những gì mà cô mong muốn. Chỉ vì muốn giúp cha mẹ trả món nợ truyền kiếp mà Mị bỗng dưng trở thành dâu nhà họ Lý kia. Bị ràng buộc về món nợ Mị còn bị ràng buộc cả về những tập tục hôn nhân cổ hủ. Chồng chất những đau khổ cho cô gái trước đây từng ao ước có một cuộc sống do mình định đoạt. Chỉ đến đây thôi người ta đã nhìn thấy cái xã hội mà bọn lang đạo, phong kiến chúa đất miền núi đã bóc lột sức lực, tước đi quyền tự do của biết bao nhiêu số phận người lao động nghèo. Ba tiếng “dâu gạt nợ” như hé mở cho người đọc một cuộc sống chồng chất những đau thương, những bi kịch mà Mị đang phải gánh chịu.

 

Khi sống cuộc sống làm dâu trong nhà thống Lý, Mị phải chịu những đau khổ về thể xác. Mị bị bóc lột sức lao động tàn nhẫn, Mị phải làm việc suốt ngày đêm, hết ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác. Mị bị cột chặt trong vòng vây của công việc. Dưới ngòi bút kể của nhà văn Tô Hoài, Mị hiện lên như một công cụ biết nói, một cỗ máy làm việc trong nhà thống Lý. Để rồi đã hơn một lần Mị thổn thức mình không bằng con trâu con ngựa. Cuộc sống của Mị không giống như cuộc sống của con người, Mị đang dần bị vật hóa. Không chỉ vậy Mị còn bị A Sử - chồng của mình đánh đập, hành hạ một cách vô lý. Đỉnh điểm trong đêm tình mùa xuân khi Mị muốn đi chơi nhưng lại bị A Sử trói đứng vào cột. Tô Hoài đứng dưới vị trí là một người ngoài cuộc như quay lại những thước phim mà ông ti mỉ thu được. Tô Hoài miêu tả tỉ mỉ những hành động tàn nhẫn của A Sử lại càng lột tả hết được bản chất tàn bạo, phi nhân tính của giai cấp thống trị mà A Sử là một đại diện tiêu biểu hơn bao giờ hết. Do vậy, qua đây mà ngòi bút của Tô Hoài có sức tố cáo gay gắt. Thêm nữa, cuộc sống của Mị còn bị trói buộc và đày đọa cả về mặt tinh thần. Mị bị ngăn cách với thế giới bên ngoài, mất đi ý niệm về thời gian, bị tước đi tất cả quyền làm người, quyền được sống, được giao tiếp với bên ngoài. Mị đã hoàn toàn bị vật hóa, bị khống chế bởi thế lực và sức mạnh của thần quyền. Đến đây thôi, hình ảnh Mị hiện lên chồng chất những đau thương và bi kịch mà qua đó Mị là một hiện thân cho người phụ nữ miền núi, người dân lao động dưới ách thống trị của bọn lãnh chúa.

 

Tiếp đến trong đêm tình mùa xuân cũng là thời khắc sức sống tiềm tàng trong Mị trỗi dậy. Âm thanh tiếng sáo gọi dậy khát khao yêu đương trong Mị bấy lâu. Nó gọi dậy tiếng lòng, tiếng hát từ trong sâu thẳm Mị. Để rồi cũng gọi dậy khát khao yêu đương, hạnh phúc, tuổi trẻ và đánh thức quyền sống con người bên trong Mị. Tô Hoài đã sử dụng nghệ thuật độc thoại nội tâm, lách sâu ngòi bút của mình vào đời sống tâm hồn miêu tả Mị. Nhà văn miêu tả chi tiết từng hành động “uống từng ngụm rượu” cho đến sự thay đổi trong tâm trạng của Mị để thấy rằng con người kia đang muốn làm chủ số phận của mình, muốn vượt lên số phận của chính mình.

 

Sau đêm tình mùa xuân nổi loạn không thành, Mị tiếp tục trở về câm lặng như xưa, tiếp tục công việc khổ sai làm tê liệt ý thức của con người, đánh đập, hành hạ làm tê liệt ý thức phẩm giá, cầm tù làm tê liệt những nhu cầu sống cơ bản của con người và bóng ma thần quyền đã tiêu diệt đi ý thức phản kháng của con người. Và chính điều đó lại là nghị lực cho Mị trong đêm đông cứu A Phủ, thoát khỏi cuộc sống mà Mị và A Phủ không được sống làm con người. Những thay đổi trong tính cách và tâm lý của Mị đều được nhà văn Tô Hoài làm rõ tạo nên những bất ngờ cho người đọc. Miêu tả sức sống tiềm tàng trong đoạn văn Mị cứu A Phủ cho thấy hiện thân của sức sống tiềm tàng của nhân dân lao động miền núi phía Bắc. Nhà văn không chỉ miêu tả đồng cảm số phận nhân vật mà còn như hé mở cho họ một lối giải thoát từ đau khổ, đáng thương đến tự do và làm chủ cuộc sống của mình. Qua đó, nhà văn ca ngợi sức mạnh của Đảng, cách mạng giúp con người được làm chủ cuộc sống của mình.

 

Phân tích Vợ chồng A Phủ - Mẫu 5

 

Nếu như tác phẩm Dế mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài mang một giọng hồn nhiên trong sáng thì tác phẩm Vợ chồng A Phủ của ông lại mang màu sắc dân tộc đậm đà, chất thơ chất trữ tình thấm đượm. Qua tác phẩm, nhà văn đã dựng nên một bức tranh hiện thực của hai cuộc đời: Mị và A Phủ, những bức tranh đó cũng chứa chan một tấm lòng nhân đạo của Tô Hoài.

 

Mị, một cô gái xinh đẹp trẻ trung, nhưng lại mang một kiếp sống nghèo của kẻ “thấp cổ bé họng”. Cha mẹ cô không thể trả nổi món nợ nhà thống lí thế là món nợ ấy truyền sang Mị. Tên thống lí tàn bạo ấy lại muốn bắt Mị làm “con dâu gạt nợ”. Mà quan đã muốn là trời muốn, cô Mị về làm dâu nhà quan mà trong lòng mang một mối uất ức không thể giãi bày. Tiếng làm dâu nhưng lại là một thứ nô lệ không hơn không kém, cô mất tất cả quyền sống, quyền được xem là một con người. Ngày trước dẫu nghèo nhưng được tự do, yêu đời, giờ đây vẫn nghèo vẫn cực nhọc lại nhục nhã chịu kiếp sống nô lệ. Qua kiếp sống của Mị, nhà văn bộc lộ một tấm lòng thương người, chua xót cho số phận con người, và cũng qua đó Tô Hoài đã vạch trần cái bản chất bóc lột của giai cấp thống trị. Người ta dùng cái thế lực và tiền bạc “cướp người đàn bà đem về trình ma”, thế là người đàn bà cũng bị cái “ma” vô hình trói cả cuộc đời trong nhà ấy, “chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi".

 

Mị đã khổ nhiều rồi, trong cái địa ngục trần gian ấy, lại càng khổ hơn khi phải chấp nhận mình là kiếp trâu kiếp ngựa. Cả những con người cứng rắn, có lẽ không khỏi động lòng khi đọc đến câu “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”… Khổ mà đến “quen” rồi quả thật ý thức con người đã bị tê liệt, đã mất đi cái “yếu tố xã hội” để được xem là con người. Chuỗi ngày cực nhục đã cướp đi của Mị sức sống tài năng, cướp đi những thất vọng tuổi trẻ những “lúc hồi hộp chờ đợi người yêu”. Lúc nào và bao giờ cũng thế, công việc cứ nối tiếp nhau vẽ ra trước mặt Mị, cứ những công việc quen thuộc làm đi làm lại “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp… Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế”. Khổ quá, cái khổ cứ chực bóp nát cuộc đời Mị, thế sao Mị không tự tử chết đi cho rồi? Không được bởi “Mị chết thì bố Mị còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ. Mị đành trở lại nhà thống lí”.

 

Cuộc sống trong cái địa ngục khủng khiếp đã bào mòn đi trái tim yêu đời của Mị, giờ đây nó đã trở nên trơ lì, chai sạn. Mị chỉ còn biết vùi đầu vào công việc: “Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa”, “càng ngày mị càng không nói, cứ lùi lũi như một con rùa nuôi trong xó cửa”. Thế giới của Mị thu vào một “cái buồng kín mít, chỉ có chiếc cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Ý thức đã hoàn toàn biến dạng, Mị nhìn ra cuộc đời bằng ô cửa sổ, mà lại chẳng biết gì ngoài ấy thì có phải Mị đã quên mình là con người! Rõ ràng Tô Hoài đã tuân thủ nguyên tắc biện chứng của chủ nghĩa hiện thực một cách nghiêm ngặt: hoàn cảnh đã tác động vào tính cách Mị. Vợ chồng A Phủ chính là một bản cáo trạng đanh thép kết án những bọn cường hào thống lí và Tô Hoài đã mở rộng tấm lòng mình để bao bọc, che chở, bênh vực cho những người phụ nữ miền núi chịu hai tầng bóc lột.

 

Bức tranh hiện thực được hoàn chỉnh hơn với sự xuất hiện của A Phủ, một chàng trai khỏe mạnh cường tráng, trung thực. Chỉ vì những cuộc ẩu đả thường tình mà A Phủ bị đưa ra xử kiện thật là vô lí. Nhưng vấn đề ở chỗ: Người đúng là con dân còn kẻ sai là con quan, hơn nữa, quan lại là người xử kiện. Như thế chẳng biết “công lí” có còn ngự trị nơi quan đường? Chỉ biết rằng A Phủ đang là một con chim xoã cánh trong bầu trời tự do bỗng chốc bị nhốt trong lồng, bị trở thành nô lệ. Dường như cuộc đời A Phủ có lặp lại ít nhiều những biến thái của cuộc đời Mị. Đó là số phận chung cho những người miền núi thời bấy giờ.

 

Nhắc đến tác phẩm, người ta nhắc đến tính hiện thực và giá trị nhân đạo. Hiện thực mà chỉ bằng tố cáo phê phán thì còn khiếm khuyết, “nhân đạo” mà chỉ có yêu và ghét thì chưa phải là nhân đạo. Nhà văn cần phải hiểu nhân vật và tìm ra con đường tất yếu mà nhân vật phải đi. Tính cách nhân vật phát triển theo hoàn cảnh và được Tô Hoài phân tích theo con đường phát triển của tâm lí nhân vật. Thiết nghĩ đây mới là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo độc đáo của tác phẩm. Nhân cách Mị bị chôn vùi trong cái địa ngục trần gian là hợp lí, sống cho ra người thì không sống được muốn chết cũng không chết được. Có phải Mị đã ở cái trạng thái “sống dở chết dở”. Rồi Mị phải quen, phải chịu đựng, và trở nên chai lì như một cỗ máy. Liệu Mị có còn lối thoát? Nếu như có một hoàn cảnh đã làm tê liệt ý thức con người thì sẽ có một hoàn cảnh để vực dậy trong lòng họ một sức sống. Nghe như mơ hồ nhưng đó là sự thực. Khi chứng kiến A Phủ bị trói, lúc đầu “Mị thản nhiên thổi lửa hơ tay. nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”. Nhưng “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ” chính là “hoàn cảnh” đã giúp Mị sống dậy. “Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lóe Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Mị bắt gặp dòng nước mắt ấy và nhớ về mình, Mị cũng phải trói đứng thế kia và Mị cũng khóc “nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được”. Dòng nước mắt là sự đồng cảm giữa hai con người. Dòng nước mắt của A Phủ đã làm bỏng rát vết thương trong lòng Mị. Tất cả thôi thúc Mị cởi trói cho A Phủ và cả hai người “lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi”. Họ đến lập nghiệp ở Phiềng Sa. Thế rồi chẳng bao lâu sau, cái đồn Tây, lại lù lù xuất hiện, cha con thống lí lại vào ở đó. Trước mắt hai người chỉ còn một sự lựa chọn: trở về kiếp sống nô lệ hoặc chống kẻ thù. Cách mạng rồi sẽ đến với họ và họ sẽ trở thành người của cách mạng.

 

Muốn phân biệt giữa giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo là điều không phải dễ. Thực ra, cả hai hòa quyện vào nhau, đan xen vào nhau. Có ghét nhà văn mới tố cáo bọn thống lí Pá Tra, có thương cảm nhà văn mới viết được những câu văn đầy xúc động, có hiểu nhà văn mới đi sâu vào cuộc sống tâm lí con người. Và Tô Hoài có thông cảm với nhân vật lắm mới có thể xét đoán tinh tế cuộc sống tinh thần của Mị. Những ngày tháng đầu tiên ở nhà thống lí Mị cứ khóc có đến hàng mấy tháng, thế rồi định ăn lá ngón để tự tử vì không chịu nhục. Nhưng vẫn cố sống, sống một cách gượng gạo vì chữ hiếu. Mị nghèo vật chất nhưng không nghèo tình thương, lòng Mị vẫn âm ỉ một khao khát sống khao khát được tự do. Nếu như nhà văn lạnh lùng theo chủ nghĩa hiện thực khách quan thì làm sao nhà văn nắm bắt được cái khoảnh khắc ngắn ngủi nhưng vẫn “tồn tại đời đời” ấy.

 

Rõ ràng nhà văn Tô Hoài tuân theo chủ nghĩa hiện thực nhưng ông tin rằng hoàn cảnh dẫu có khắc nghiệt vẫn không thể vùi dập hoàn toàn nhân tính. Hoàn cảnh tác động tính cách nhưng không giết chết tính cách. Trải qua hơn nửa thế kỉ, tác phẩm vẫn còn còn nguyên giá trị hiện thực và nhân đạo cao cả của nó. Vì vậy truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” mới mãi mãi đọng lại trong lòng người đọc.

 

phân tích vợ chồng a phủ

Phân tích Vợ chồng A Phủ

 

3. Phân tích vợ chồng a phủ trong đêm tình mùa đông

Phân tích vợ chồng a phủ trong đêm tình mùa đông

 

Tô Hoài là cây bút văn xuôi hàng đầu của văn học Việt Nam hiện đại, ông có vốn sống, vốn hiểu biết sâu sắc về con người và phong tục văn hóa của vùng đất Tây Bắc. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn xuất sắc của Tô Hoài khi viết về cuộc sống và số phận của cặp vợ chồng người H’Mông dưới ách thống trị của phong kiến miền núi trước năm 1945. Tác phẩm không chỉ hướng đến phản ánh hiện thực về đời sống của người dân nghèo mà còn mang giá trị nhân văn sâu sắc khi hướng về những giá trị tốt đẹp, sức sống mãnh liệt bên trong con người, điều này được thể hiện rõ nét qua chi tiết Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ.

 

Mị từng là cô gái xinh đẹp, có tàu thổi sáo được nhiều chàng trai trong làng theo đuổi “trai đến đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị”. Xinh đẹp, trẻ trung, yêu đời lại là người yêu tự do lẽ ra Mị xứng đáng được sống hạnh phúc nhưng cuộc đời của Mị lại là một chuỗi những đau khổ, bi kịch khi buộc phải làm con dâu gạt nợ cho gia đình thống lí.

 

Từ khi trở thành con dâu gạt nợ cho gia đình thống lí, Mị đã trở nên lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, tê liệt khả năng phản ứng và sống cam chịu đến mức đáng thương. Sức sống bên trong Mị bị tê liệt nhưng không bị lụi tắt hoàn toàn bởi chỉ cần một cơn gió thổi đến, sức sống ấy lại bùng cháy mãnh liệt hơn bao giờ hết. Trong đêm tình mùa xuân, sức sống trong Mị tuy đã trỗi dậy nhưng không đủ để Mị cứu mình. Phải đến đêm cắt trói cứu A Phủ sức sống tiềm tàng ấy mới thực sự được thức tỉnh.

 

Trong đêm hơ tay thổi lửa, Mị đã chứng kiến cảnh A Phủ bị trói đứng trong sân nhà Pá Tra. Cảnh trói người nhà thống lí đã trở nên quen thuộc đến mức Mị tâm hồn bị tê liệt của Mị vô cảm, rửng rưng trước sự xuất hiện của A Phủ. Khi ấy, giọt nước mắt của A Phủ đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức và làm cho sức sống trong Mị bùng cháy dữ dội.

 

Nhìn thấy tình cảnh của A Phủ, Mị nhớ về những kí ức đau khổ khi bị A Sử trói, từ thương mình Mị thương xót, đồng cảm cho hoàn cảnh của A Phủ. Mị từ cõi vô thức dần thức tỉnh phần ý thức bị tê liệt bấy lâu nay, Mị nhận thức sâu sắc hơn bao giờ hết về tội ác của cha con thống lí “chúng trói người ta tới chết”. Đồng cảm với số phận đau khổ của A Phủ cùng sự bất bình với tội ác của cha con thống lí, Mị đã có hành động táo bạo khi cắt dây cởi trói cho A Phủ.

 

Phải thấy rằng hành động này vô cùng dứt khoát, táo bạo, là hiện thân cho sức sống mạnh mẽ thức tỉnh trong Mị bởi khi cắt dây có nghĩa Mị đã chấp nhận đối đầu không chỉ cường quyền mà cả thần quyền là con ma nhà thống lí. Sau khi cứu người, Mị bỗng sợ hãi vụt chạy theo A Phủ, đây cũng là khi sức sống, khát khao sống bộc lộ rõ nhất và cũng chính tình thương và khát khao sống đã cứu thoát A Phủ và cả bản thân của Mị.

 

Chi tiết Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ không chỉ lên án sâu sắc thế lực phong kiến miền núi đã tước đoạt quyền sống và hạnh phúc của con người mà còn thể hiện sự đồng cảm của nhà văn Tô Hoài đối với những con người nghèo khổ, bất hạnh, những nạn nhân đáng thương trong xã hội ấy.

 

Miêu tả sự thức tỉnh của sức sống bên trong Mị, nhà văn Tô Hoài cũng đã chỉ ra con đường để những người dân nghèo khổ tự giải thoát cho cuộc đời mình, đó là việc dũng cảm đứng lên chống cường quyền, thần quyền, tham gia cách mạng để hướng đến cuộc sống tốt đẹp. Đây chính là những thông điệp mới mẻ của Tô Hoài được thể hiện trong tác phẩm này.

 

Phân tích vợ chồng a phủ trong đêm tình mùa đông

 

“Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường. Những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đày đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực.” (Nguyễn Minh Châu). Với hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã thực hiện trọn vẹn sứ mệnh ấy. Nhà văn mang đến cho người đọc một hình tượng nghệ thuật với biết bao vẻ đẹp – nhất là sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong đêm mùa đông cởi trói cho A Phủ.

 

Tô Hoài – nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Với vốn am hiểu sâu rộng về nhiều lĩnh vực khác nhau, tác giả này thường lựa chọn được những hình ảnh, từ ngữ rất phù hợp để đưa vào trong từng trang văn của mình. Tô Hoài sáng tác nhiều ở các mảng đề tài khác nhau, có thể kể tới như truyện cho thiếu nhi, truyện về Tây Bắc và viết cả về Hà Nội. Nhà thơ Trần Đăng Khoa khi được tiếp xúc với người nghệ sĩ này đã trầm trồ thán phục rằng: “Tô Hoài là nhà Hà Nội học” bởi những kiến thức mà ông biết không có trong bất cứ một cuốn sách nào, một thư viện nào. Sáng tác nhiều như vậy, nhưng nhà văn này lại dành một sự quan tâm sâu sắc cho hình ảnh của người lao động đặc biệt là đồng bào Tây Bắc. Theo như Tô Hoài tâm sự, vì mảnh đất miền Tây đã để thương để nhớ cho ông nhiều quá nên ông đã quyết định quay trở lại đây, trả món ân tình bằng một tập “Truyện Tây Bắc” xuất sắc. “Vợ chồng A Phủ” là một trong số ba truyện ngắn in trong tập truyện này. Tác phẩm là thành quả đẹp của chuyến đi thực tế dài 8 tháng vào năm 1952 cùng bộ đội. Thời gian ở đây, được sống, được làm việc, được tiếp xúc đã giúp cho ngòi bút của nhà văn nay có biết bao nhiêu cảm hứng để xây lên những áng văn đẹp và tình cho đời. Không quên sứ mệnh của một nhà văn, Tô Hoài nhìn thấy những con người vất vả, yêu câu chuyện mà họ kể lại viết thành những tác phẩm để đời. “Vợ chồng A Phủ” chính vì lý do đó mà đã thể hiện mạnh mẽ một trong những phẩm chất cao đẹp của người lao động – sức sống tiềm tàng.

 

Mị là nhân vật trung tâm của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Cô vốn là một cô gái vùng cao trẻ trung, xinh đẹp và tài hoa nhưng vì món nợ truyền kiếp, Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Vì vậy, Mị phải từ bỏ tuổi thanh xuân, phải sống một cuộc sống bị đọa đày về cả thể xác lẫn tinh thần. Mị đã từng muốn tìm đến cái chết với nắm lá ngón trong tay nhưng Mị không thể chết. Nếu Mị chết, cha Mị sẽ khổ, sẽ không thể trả được món nợ cho nhà thống lí. Mị đành chấp nhận quay trở lại làm con dâu gạt nợ, sống kiếp đời nô lệ, tủi nhục, bất hạnh. Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc sống, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa xuân. Trong đêm mùa xuân ấy, Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi. Sức sống tiềm tàng dưới tác động của bao yếu tố đã dần trỗi dậy mạnh mẽ. Những sợi dây thô bạo của A Sử lại một lần nữa dập tắt sức sống của Mị. Dù phải chịu đau đớn và kết cục ê chề nhưng đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim. Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về.

 

Mùa đông trên núi cao dài và lạnh, Mị chỉ có bếp lửa là người bạn duy nhất của mình. Mị có thói quen sưởi lửa hàng đêm dù rất nhiều lần thằng A Sử nó về nhìn thấy Mị sưởi lửa nó đã đạp Mị ngả dụi xuống đất. Nhưng Mị không bỏ được. Bếp lửa đối với người con gái này không chỉ là công cụ sưởi ấm mà quan trọng hơn đó còn là người bạn sưởi ấm tâm hồn của Mị trong những năm tháng đầy chai sạn này, mà theo cách lí giải của tác giả Tô Hoài, ấy chính là phần vô thức của con người: “Ngọn lửa là hình ảnh có tính chất tượng trưng, nó ở trong sự vô vọng của cuộc đời Mị, dù rất mơ hồ nhưng nó níu kéo không để sự vô vọng lùa đi đến tuyệt cùng”. Đêm hôm đó, cũng nhờ bếp lửa, Mị nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ - Chàng trai gạt nợ cho nhà thống lý có thể ngày mai, ngày kia sẽ chết.

 

Chỉ vì mải bẫy nhím để hổ vồ mất bò, A Phủ phải chịu cảnh trói đứng nghiệt ngã. Nhưng ban đầu, khi đối diện với một con người đang đứng trên bờ vực cái chết là A Phủ ấy, “Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay”. Mị còn tự nghĩ A Phủ nếu là “cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Mị hoàn toàn vô cảm, thờ ơ trước cảnh A Phủ bị trói. Đây cũng là một diễn biến tâm lí bình thường, hợp lí. Nó hợp lí là bởi Mị đã ở lâu trong khổ đau, đã chịu bao đày đọa về thể xác và tinh thần. Cái cuộc sống ở nhà thống lí Pá Tra đã làm bào mòn đi tâm hồn Mị. Mị đã bị tê liệt đi mọi cảm xúc, ý thức, nhận thức, Mị trở nên vô cảm, thờ ơ với nỗi đau của chính mình và cả nỗi đau của người khác. Hơn thế nữa, cảnh trói người, đánh người cũng chẳng còn là xa lạ ở nhà thống lí Pá Tra. Nó diễn ra một cách thường xuyên, hằng ngày, hằng giờ. Cuộc sống của những con người ở nhà thống lí đầy cơ cực, đắng cay và đày đọa. Chính vì vậy họ chẳng còn có thể đồng cảm, quan tâm đến nỗi đau của người khác.

 

Như vậy hoàn cảnh nghiệt ngã của đồng loại cũng chẳng còn lay động được tâm hồn Mị nữa rồi. Có lẽ phải cần thêm một tác nhân nữa. Và đó chính là dòng nước mắt của A Phủ. Lửa cháy sáng, “Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính “dòng nước mắt lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người cùng cảnh ngộ. Quả thật “Khi tình thương chạm vào trái tim thì cho dù sỏi đá cũng thành châu lệ”. Mị hiểu cảm giác bị trói đứng đến chết “chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”, bởi Mị đã từng bị A Sử trói như vậy. Ở đoạn văn này, tác giả không hề đề cập đến nỗi đau về thể xác của Mị, cũng không hề viết về nỗi tủi nhục của A Phủ nhưng tất cả đều hiện lên thật rõ. Mị đã cảm nhận nỗi đau của A Phủ bằng chính những cảm xúc xuất phát từ nỗi đau của mình. Mị căm phẫn khi nhớ lại người đàn bà đời trước cũng bị trói đến chết trong căn nhà này. Lần đầu tiên, Mị nhận thức được tội ác của cha con thống lí một cách cặn kẽ: “Chúng nó thật độc ác!” – điều mà từ trước đến nay, ngay cả khi bị trói không cựa được Mị cũng chưa từng nghĩ. Đó là sự trỗi dậy ý thức về kẻ thù, căm ghét cái ác, cái tàn bạo. Việc trói người đến chết còn các hơn cả thú dữ trong rừng. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”. Từ thương mình, tới thương người, Mị cảm thấy thương A Phủ: “cơ chừng này chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Trong Mị đã le lói để rồi xuất hiện thật rõ ý muốn phản kháng, ý muốn cứu người, rồi tất yếu sẽ dẫn đến hành động cắt dây trói đầy dũng cảm.

 

Một loạt nét tâm lí ấy đã thôi thúc Mị cắt dây cởi trói cứu A Phủ. Nhưng trước khi cắt: Mị băn khoăn “cha con thống lý sẽ đổ cho Mị cởi trói, Mị sẽ bị trói thay vào đấy...”, rất có thể Mị sẽ phải chết thay A Phủ. Nhưng làm sao, “Mị cũng không thấy sợ”, lòng thương người trong Mị đã lớn hơn cả sự sợ hãi. Mị rón rén bước lại gần A Phủ, rút con dao nhỏ, cắt nút dây mây. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này. Trong Mị giờ đây không chỉ tiềm tàng ý thức muốn phản kháng cái ác mà mạnh mẽ hơn đó là sự thôi thúc của tình thương, của lòng trắc ẩn đã trỗi dậy. Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “Đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. Đó là mệnh lệnh đối với A Phủ đồng thời là một lời kiên quyết đối với tâm hồn mình. A Phủ vùng chạy đi còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết? Bởi theo tập tục của dân tộc của Mị, đã cúng trình ma rồi thì dù chết cũng phải chết ở nhà đó, nếu chạy trốn cùng A Phủ thì Mị không đơn giản chỉ là giải thoát cho mình mà còn là làm trái với tập tục, với truyền thống. Đây chẳng còn là chuyện về ý chí nữa mà còn là chuyện về tâm linh, ý niệm.

 

Nhưng cận kề nhất với Mị sẽ là cái chết, chắc chắn là chết, nếu Mị ở lại. Đồng thời cái hình ảnh của A Phủ “quật sức vùng lên” tác động mạnh vào Mị. Mị đứng lặng trong bóng tối. Rồi cũng vụt chạy ra. “Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi”. Nghĩa là phía trước mọi cái vẫn tối tăm và bất định lắm, nhưng đó là sự bất định chưa rõ, còn cụ thể ngay giờ đây là cái chết. Trong tình huống đó, cả A Phủ và Mị không thể có con đường nào khác là chạy đi. Bước chân của Mị như đạp đổ chế độ cường quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị gọi với theo: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là khao khát sống, khao khát tự do mãnh liệt của Mị. Câu nói ấy khi cất lên đã làm quặn đau trái tim độc giả, truyền đến độc giả sự cảm nhận rõ nhất về biết bao khổ cực Mị đã phải gánh chịu, cùng với đó là sự phục sinh mạnh mẽ hơn tất thảy của niềm khao khát sống trong Mị. Kể từ đây, những áp chế về cường quyền, bạo quyền và thần quyền đều ở lại. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến, chỉ biết rằng phải cật lực chạy thoát khỏi địa ngục trần gian này.

 

Hành động cắt dây cởi trói cứu A Phủ chính là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời Mị. Từ thân phận nô lệ, Mị làm chủ cuộc đời mình. Từ sức sống tiềm tàng, âm ỉ đã phát triển thành sức mạnh giải phóng để thay đổi cuộc đời. Nhà văn Tô Hoài đã thật tinh tế khi sử dụng nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, cách dựng cảnh sinh động, cách lột tả nội tâm nhân vật nhiều bất ngờ, thú vị. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị đã đưa ta đến chốn Hồng Ngài đầy dẫy đau thương nhưng vẫn sáng lên khao khát sống mãnh liệt của con người. Từ hành động cứu người của Mị, chúng ta nhớ đến sự việc giải cứu linh hồn quỷ dữ làng Vũ Đại của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao. Chỉ với việc đem cho Chí bát cháo hành mà Thị Nở đã làm thay đổi suy nghĩ và tâm tính của một con người triền miên trong cơn say và tội lỗi. Phải chăng “tình thương là một thứ năng lượng kì diệu mà bản thân nó có thể tạo ra những phép lạ”. Hay như sức sống mãnh liệt của những con người đang trên bờ vực chết vì đói trong “Vợ nhặt” của Kim Lân, sau cùng họ vẫn hướng về ánh sáng của no ấm, tự do, hạnh phúc. Tiềm ẩn trong mỗi con người vẫn luôn là khát vọng sống lớn lao mà không một khó khăn, không một cường quyền, bạo quyền nào có thể vùi dập hoàn toàn.

 

Một loạt câu văn ngắn, nhiều động từ đã được Tô Hoài sử dụng tạo nên tình huống hành động, giàu kịch tính cho đoạn trích. Khác với những sự kiện ở đoạn trước, tâm lí của Mị được thể hiện chủ yếu qua ngôn ngữ độc thoại. Trong sự kiện cuối cùng mang tính chất cao trào này, nhà văn vừa sử dụng ngôn ngữ độc thoại, vừa xen kẽ những lời thoại ngắn nhằm tạo độ nén, độ căng cho tác phẩm. Từ đó nhà văn khẳng định sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nữ Việt Nam nói chung. Nhà văn đã rất cảm thông và xót thương cho số phận tủi cực, không lối thoát của đồng bào bị áp bức như Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời, tác giả Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: “Ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh’’, để chống lại áp bức, con người có thể dũng cảm vùng lên mạnh mẽ, dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị.

 

Câu chuyện “Vợ chồng A Phủ” khép lại nhưng đồng thời mở ra trong ta những xúc cảm đặc biệt. Hình tượng nhân vật Mị trong đêm mùa đông cởi trói cho A Phủ đã cởi nút thắt cho bao nhiêu tăm tối và cùng cực của con người, đó nhưng một lời tuyên ngôn về sức mạnh của tình thương yêu và khát khao sống, khát khao tự do mãnh liệt. Ngòi bút Tô Hoài đã diễn tả thành công cuộc đời cũng như con đường đấu tranh từ tự phát đến tự giác của đồng bào miền núi, bằng lời văn giàu tính tạo hình, ngôn ngữ giản dị, phong phú và nghệ thuật kể chuyện linh hoạt, lôi cuốn. Với “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã thực sự trở thành “kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường.” (Nguyễn Minh Châu)

 

Phân tích vợ chồng a phủ trong đêm tình mùa đông

 

Nguyễn Minh Châu đã từng nói: “Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực”. Đến với “Vợ chồng A Phủ” quả thật Tô Hoài đã thực hiện được trọn vẹn sứ mệnh ấy. Gửi gắm vào từng trang văn không phải chỉ là hiện thực cuộc sống của những người dân lao động miền núi mà hơn cả, gửi vào đó còn là cả trái tim nhân đạo. Ở đó nhân vật Mị hiện lên là đại diện cho cả một tầng lớp, số phận con người bất hạnh nơi vùng núi. Chỉ qua diễn biến tâm lí của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cởi trói cho A Phủ cũng đủ để người đọc hiểu rõ hơn về sức sống mạnh mẽ của con người nơi đây mà không thế lực nào có thể dập tắt được, một sự thay đổi mạnh mẽ trong cả nhận thức và hành động.

 

“Vợ chồng A Phủ” được sáng tác năm 1952, là kết quả của quá trình tám tháng đi thực tế ở Tây Bắc. Dưới ngòi bút tài hoa, lối kể chuyện tự nhiên, từng trang văn của Tô Hoài cứ thế nhẹ nhàng đi vào trái tim người đọc, để lại ấn tượng sâu đậm về hình ảnh của nhân vật Mị - đại diện cho số phận của người nông dân lao động miền núi. Nhân vật Mị hiện lên ở vị trí trung tâm của tác phẩm mà ở đó Tô Hoài tập trung vào khai thác diễn biến tâm lí, sự thay đổi trong suy nghĩ, nhận thức để đi đến hành động. Mị là một cô gái trẻ trung xinh đẹp nhưng có một cuộc đời bất hạnh, là nhân vật điển hình cho số phận những người nông dân miền núi. Người nông dân không phải là đề tài mới mẻ, nhưng dưới góc nhìn của Tô Hoài, ông đã có cách nhìn mới hơn, khám phá, tiếp cận theo cách riêng, một cách sáng tạo hơn, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Đặc biệt, hình tượng nhân vật Mị trong đêm mùa đông với những thay đổi cả về nhận thức và hành động đã để lại trong người đọc thật nhiều ấn tượng. Một hình ảnh đại diện cho số phận, sức mạnh tiềm tàng của những người dân lao động miền núi.

 

Trong những năm tháng làm dâu nhà thống lí, Mị đã phải trải qua những ngày tháng đau khổ, tủi cực, không được sống là chính mình, không được sống như một con người. Tưởng chừng như trong đêm tình mùa xuân ấy Mị đã được sống trở lại, được quay về là một cô Mị yêu đời. Nhưng không, cái trói buộc Mị lại trong đêm mùa xuân ấy không phải chỉ là sợi dây trói của A Sử mà hơn cả đó còn là sự trói buộc của cả cường quyền và thần quyền, Mị lại tiếp tục quay trở lại cuộc sống như “con rùa lầm lũi”. Và rồi đến khi gặp A Phủ, ở Mị như dậy lên một nguồn sức sống mới, một nguồn sức sống đã khơi dậy ở Mị là cả nỗi đồng cảm, vùng lên chạy thoát để giải cứu cho số phận và cuộc đời mình. Như biết bao đêm mùa đông khác, những gì diễn ra xung quanh không khiến Mị quan tâm. Mị ngồi thổi lửa, hơ tay. Ngọn lửa ấy như hơi ấm duy nhất mà Mị cảm nhận được trong cuộc sống này. Mị rất sợ những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Khi trong nhà ngủ yên, Mị tìm đến bếp lửa như nguồn hơi ấm duy nhất sưởi ấm cả về thể xác và tâm hồn Mị. Nếu không có bếp lửa ấy, có khi cô chết héo mất.

 

Cũng chính nhờ ngọn lửa, đêm ấy, “Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má xám đen lại.” Ngay lúc này, trỗi lên trong tâm trí và trái tim Mị chính là một nỗi đồng cảm, Mị nhớ lại đêm năm trước bị A Sử trói, Mị cũng phải đứng trói thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không thể nào lau đi được. Giọt nước mắt thay đổi Mị không chỉ vì nó gợi cho Mị những kí ức về một thời đã qua , gợi sự dằn xé đau đớn vì một cái chết oan ức mà còn vì nó gợi cho Mị ý thức đấu tranh với những điều bất công, tàn nhẫn. Rồi Mị phảng phất nghĩ gần, nghĩ xa: “Cơ chừng này thì chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn đợi ngày rũ xương ở đây thôi… người kia việc gì phải chết thế?” Mị xót cho A Phủ như cho chính bản thân mình vậy, Mị thương cho A Phủ không đáng phải chết. Thế nhưng, điều làm Mị lo chính là bố con Pá Tra, nếu như biết được Mị sẽ phải thay vào đấy và chết trên cái cọc đấy. Nhưng dường như tình thương đã lớn hơn cả nỗi sợ, tình thương, nỗi đồng cảm ấy đã thôi thúc Mị đi đến hành động cởi trói cho A Phủ. Và tình người cùng những nhận thức về sự tàn ác của bọn giai cấp thống trị đã trở thành động lực để Mị dũng cảm : “Mị rút con dao găm cắt lúa , cắt nút dây mây.” giải cứu A Phủ . Nhưng rồi Mị sẽ ra sao khi liều lĩnh và táo bạo như thế? Nhưng trong thời khắc buộc con người phải đấu tranh ,con người ta đã quên đi nỗi sợ. Và hành động của Mị chính là chiến thắng của tình thương, của lẽ phải. Ở đây, giọng văn Tô Hoài vội vã và mạnh mẽ. Những suy nghĩ , hành động và nhận thức nối tiếp nhau. Để từ đó, từ trang văn, người đọc thêm tin vào bản chất tốt đẹp trong mỗi con người, tin rằng khi nó được thức tỉnh, nó sẽ không ngừng hành động hướng đến một cuộc sống nhân bản và tươi sáng. Và vì vậy văn chương đã , đang và sẽ luôn “thức tỉnh tình yêu đối với con người và khát vọng tích cực đấu tranh cho lý tưởng nhân đạo và tiến bộ của loài người.” (Sô lô khốp).

 

Sau khi cứu A Phủ để đi đến hành động cứu mình, Mị đã đấu tranh tư tưởng một cách quyết liệt “Mị đứng lặng trong bóng tối”. Câu văn ngắn, được tách thành một đoạn riêng biệt như tạo nên một điểm dừng. Ngay lúc này, trong tâm trí Mị đang đấu tranh vô cùng căng thẳng, Mị lựa chọn giữa đi và ở, giữa sự sống và cái chết, giữa cuộc sống tự do và cuộc sống nô lệ. Từ trước đến nay, Mị không dám vùng lên, chấp nhận cuộc sống nô lệ không phải chỉ bởi sự uy hiếp của cường quyền mà còn bởi sức mạnh của thần quyền đã ăn sâu vào trong tâm trí Mị. Mị đã từng nghĩ: “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn đợi ngày rũ xương ở đây thôi.” Sức mạnh của thần quyền đã ăn sâu vào trong tâm trí của Mị. Mị ý thức rõ về bóng tối mà Mị đang đứng là tội ác, là sự bất công, đày đọa tàn bạo của nhà thống lí. Chính Mị đã mở ra con đường sống, khai thông ánh sáng cho cuộc đời A Phủ. Ngay trước mắt Mị đang là ánh sáng của tự do, của hạnh phúc mà Mị vẫn hằng khát khao nhưng Mị chỉ “đứng lặng”. Mị nghĩ về cuộc đời mình, trong tâm trí của Mị lúc này đang là sự đấu tranh căng thẳng, quyết liệt. Chỉ với một câu văn ngắn, ta cũng có thể thấy tài năng của Tô Hoài trong việc khai thác tâm lí nhân vật. Qua đó vừa khiến người đọc tò mò, hồi hộp liệu hành động tiếp theo của Mị sẽ là gì. Ngay lúc này, hành của ấy sẽ quyết định số phận của Mị những ngày tháng về sau.

 

Và rồi khát vọng tự do đã thôi thúc Mị sống và chạy theo A Phủ, Mị đạp đổ cường quyền và thần quyền, vùng lên tự giải phóng bản thân “Rồi Mị cũng vụt chạy ra”. Mị lựa chọn nhanh chóng, biến thành hành động tự cứu mình một cách quyết liệt. Mị bỏ lại tất cả và chạy theo A Phủ, đó không phải là tiếng gọi của tình yêu mà chính là sức mạnh của khát khao hạnh phúc, khát khao tự do đã thôi thúc Mị. “Trời tối lắm”, tối như số phận, cuộc đời của Mị, “nhưng Mị vẫn băng đi”, Mị tự giải thoát khỏi những gông xiềng của cường quyền bạo lực và thần quyền lạc hậu. Điều thôi thúc Mị hành động không phải chỉ là khát khao sống, khát khao tự do, hạnh phúc mà đó còn là ở hành động “quật sức vùng lên, chạy” của A Phủ, chính khát vọng sống ấy đã tác động mạnh mẽ đến Mị, thôi thúc Mị hành động. Mị vốn là một cô gái mạnh mẽ, bản lĩnh, quyết đoán, Mị nhận thức rõ về thực tại, Mị biết mình muốn và phải làm gì. Cảm xúc hiện tại của Mị là hoàn toàn rõ ràng, hành động của Mị là được dẫn dắt bằng lí trí chứ không phải là “tiếng sáo” hay “men rượu” như trước đây nữa. Người đàn bà hàng ngày vẫn sống cuộc sống “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” đã sống dậy, trở về đúng bản chất vốn có mạnh mẽ, kiên cường, bản lĩnh.

 

Sau bao năm, tưởng như Mị đã quên đi tiếng nói thế nhưng giờ đây câu đầu tiên mà Mị nói là câu đòi quyền tự do, đòi quyền sống “A Phủ cho tôi đi”, “Ở đây thì chết mất”. Những câu đối thoại ngắn, cách nói chuyện mộc mạc, giản dị, đúng với tính cách của nhân vật, của những người nông dân lao động miền núi. Trước đây, Mị luôn sống câm lặng thì khi Mị ý thức về thực tại cũng là lúc Mị trở lại là con người, cất tiếng nói đòi tự do. “A Phủ chợt hiểu. Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu mình.” Hai con người đồng cảnh ngộ đã vực lên một nỗi đồng cảm, hai số phận được kết nối, đó là tình người, tình hữu ái giai cấp. Và rồi “Hai người lẳng lặng đỡ nhau chạy xuống dốc núi.” Không biết rằng con đường phía trước sẽ dẫn hai số phận cùng khổ ấy đến đâu, không biết rằng những ngày tháng phía trước sẽ như thế nào thế nhưng chắc chắn rằng nếu ở lại đây cuộc sống của họ sẽ chỉ nhuốm một màu đen tối. Chính vì vậy, hai con người ấy đã vùng lên, thoát khỏi sự gò bó, chèn ép, đầy đọa của cuộc sống, xã hội ở Hồng Ngài.

 

Nếu như trước đây Mị luôn sống khép mình, nỗi buồn bủa vây cuộc sống, Mị luôn giữ cảm xúc tủi hổ, trĩu nặng thì giờ đây Mị đã đừng lên cứu người, cứu mình và cũng là lúc Mị sống dậy những cảm xúc. Mị đã từng mất đi ý thức của một con người, chấp nhận cuộc sống nô lệ nhưng khi cảm xúc trở lại cũng là lúc Mị ý thức về thực tại, về tội ác và sự bất công của nhà thống lí, Mị ý thức rõ cả về hành động mà Mị phải làm ngay lúc này. Trước đây, Mị luôn chấp nhận số phận, Mị quan niệm rằng “ nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn đợi ngày rũ xương ở đây thôi” thì ngay khi Mị nhận thức về thực tại, quan niệm sống của Mị cũng thay đổi, con người ai cũng có quyền sống, quyền tự do, chỉ có đứng lên đấu tranh con người mới thoát khỏi kiếp nô lệ. Chính niềm khao khát bảo vệ những điều tốt đẹp đã làm thay đổi ở Mị từ cảm xúc, nhận thức, thái độ và quan niệm sống. Từ một cô Mị luôn chỉ biết sống câm lặng, giờ đây Mị đã vùng lên, tìm đến ánh sáng tự do, hạnh phúc, hành động tự cứu mình là hoàn toàn hợp lý, logic, thể hiện khát khao sống, khát khao tự do mãnh liệt của Mị. Trong trái tim Mị vẫn luôn âm ỉ cháy một ngọn lửa sức sống tiềm tàng. Chính vì vậy khi gặp hành động “quật sức vùng lên, chạy” của A Phủ đã làm trỗi dậy ở Mị sức sống mạnh mẽ, thôi thúc, tạo động lực cho Mị vùng lên cứu mình. Đó chính là nguyên nhân tạo nên sự thay đổi, chuyển biến của Mị. Ở Mị như mang một màu sắc điển hình, đại diện cho người nông dân lao động miền núi, dù trong bất kì hoàn cảnh nào, họ vẫn luôn chứa đựng một nguồn sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, chỉ cần có một cơn gió thổi qua sẽ bùng cháy lên mạnh mẽ, dữ dội hơn bao giờ hết.

 

Với Tô Hoài “Mỗi chữ phải là hạt ngọc buông xuống những trang bản thảo”. Không bằng những từ ngữ, hình ảnh đặc sắc nhưng với vốn từ ngữ giàu có, giản dị, được sử dụng một cách đắc địa, tài ba, nó đã hóa thành những “hạt ngọc” gieo rắc lên những trang giấy và ghim vào trái tim bạn đọc. Tô Hoài rất am hiểu về tâm lí nhân vật mà có lẽ vì thế, hành động của Mị từ đấu tranh tư tưởng đến chạy theo A Phủ tuy diễn ra nhanh chóng nhưng rất hợp lí, logic. Những câu nói, câu đối thoại ngắn những thể hiện cách nói mộc mạc, giản dị, đúng với tính cách nhân vật. Tô Hoài xây dựng nhân vật Mị điển hình cho người nông dân trong xã hội phong kiến miền núi, đồng thời khơi dậy và khẳng định sức sống tiềm tàng của họ. Nguyễn Minh Châu đã từng viết “Nhà văn phải là người đi tìm, gắng đi tìm những hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn con người”. Mị đã vùng lên cứu người và cứu mình. Tô Hoài chỉ ra con đường giải phóng cho người nông dân đó là đến với Cách Mạng, qua đó thể hiện niềm tin của nhà văn vào con người, vào sức sống tiềm tàng của họ. Mị đã hoàn toàn thoát khỏi vỏ bọc trước đây, chạy về phía ánh sáng.

 

Ở đây Tô Hoài rất thành công trong việc miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật, không bằng quá nhiều hành động, lời nói nhưng cũng đủ để Tô Hoài đi sâu vào khai thác đời sống nội tâm nhân vật. Nhà văn sử dụng ngôn ngữ nửa trực tiếp, tưởng chừng như ta đang nghe chính Mị kể lại câu chuyện về cuộc đời mình vậy, từ đó đã tạo nên một sợi dây vô hình kết nối giữa nhân vật và người đọc. Dưới ngòi bút hiện thực của Tô Hoài, sự kết hợp giữa những hình ảnh quen thuộc, giọng văn mộc mạc, gần gũi cũng đủ để nhà văn vẽ lại một hiện thực xã hội phong kiến tàn bạo và khốc liệt đến như vậy. Đồng thời qua đó, nhà văn khẳng định sức sống tiềm tàng, khát khao về cuộc sống tự do, hạnh phúc của con người.

 

Nam Cao đã từng nói: “Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than.” Câu chuyện về cuộc đời Mị là câu chuyện có thật mà Tô Hoài đã được nghe trong chuyến đi thực tế ở Tây Bắc. Cuộc đời Mị chính là “tiếng đau khổ” mà Tô Hoài viết lên từ số phận của con người bất hạnh. Có lẽ, chưa bao giờ, “tiếng đau khổ” ấy cất lên một cách đầy đau đớn như vậy. Đó là tiếng lòng của một số phận cô đơn đồng thời còn là tiếng than đầy ai oán về số phận bất hạnh. Giờ đây, “tiếng đau khổ” ấy không còn là của riêng cuộc đời Mị mà nó đã trở thành tiếng lòng của cả một tầng lớp giai cấp. Nếu như Ngô Tất Tố để chị Dậu chạy theo cái tiền đồ tối đen như mực, Nam Cao đẩy Chí Phèo vào bế tắc, giết kẻ thù rồi giết mình thì Tô Hoài mở ra con đường ánh sáng cho nhân vật, đó là con đường Cách Mạng, đứng lên tự giải phóng. “Vợ chồng A Phủ” sáng tác năm 1952, khi ấy nhân dân ta đã được tiếp cận với ánh sáng của Cách Mạng, chính vì vậy, ở Tô Hoài ta thấy sự tươi sáng hơn, tác giả đưa nhân vật đến với ánh sáng chứ không phải rơi vào bế tắc, bất lực như chị Dậu hay Chí Phèo.

 

Khép lại những trang văn của Tô Hoài, người đọc như vẫn cảm nhận được đâu đó hình ảnh nhân vật Mị, hình ảnh chạy ra khỏi cái bóng tối của Hồng Ngài để tìm đến tự do. Tô Hoài đã từng nói rằng: “Ở mỗi nhân vật và trùm lên tất cả miền Tây , tôi đã đưa vào một không khí vời vợi làm cho đất nước và con người bay bổng lên hơn, rời bỏ được cái ám ảnh tủn mủn, lặt vặt thường làm co quắp nhân vật và làm nhỏ bé vấn đề khung cảnh đi.” Bằng chất thơ trong văn chương của mình, nhà văn đã xây dựng thành công sự thay đổi của nhân vật Mị, truyền đến cho người đọc một nguồn sức sống mãnh liệt, niềm tin vào bản thân, niềm tin vào cuộc sống giữa cái bóng tối, giá rét của Hồng Ngài. Những cảm xúc ấy sẽ còn vẹn nguyên mãi trong trái tim bạn đọc.

 

Phân tích vợ chồng a phủ trong đêm tình mùa đông

 

Khi đọc tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài, người đọc rất cảm thông với số phận của cô Mị và hoàn toàn có thể hiểu được lý do khiến Mị buông xuôi, cam chịu, chấp nhận số phận bất hạnh của mình. Thế nên việc sức sống vẫn tồn tại và bùng cháy trong Mị đã khiến người đọc không khỏi nể phục và ngưỡng mộ.

 

Mị là người con gái có khát vọng sống, khát vọng tự do, có lòng tự trọng. Chính vì khát vọng sống tự do và lòng tự trọng đó mà Mị mới có hành động xin cha không gả mình đi rồi hành động hái lá ngón định tự vẫn. Tiếc thay cô Mị tự trọng và cương quyết bao nhiêu thì cũng hiếu thảo và giàu tình yêu thương bấy nhiêu. Vì thương cha nên Mị mới từ bỏ việc chết, vì thương cha nên Mị mới chấp nhận cuộc sống nô lệ nhà Pá Tra. Cũng đã có một lần khát vọng sống bùng cháy mãnh liệt trong Mị, ấy là trong đêm mùa xuân khi Mị lắng nghe tiếng sáo mời gọi bạn đi chơi, khi Mị uống rất nhiều rượu, khi Mị hồi tưởng lại thanh xuân tươi đẹp và tự do của mình. Đó là lần đầu tiên khát vọng sống trỗi dậy mạnh mẽ trong Mị sau chuỗi ngày Mị sống lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Thế nhưng cuối cùng, khát vọng ấy vẫn bị A Sử về và dập tắt, đồng thời, A Sử cũng tra tấn Mị và nếu không có người chị dâu vào cởi dây trói thì có lẽ Mị sẽ cứ thế mà chết.

 

Khát vọng sống của Mị bị dập tắt, những tưởng Mị sẽ hoàn toàn trở lên câm lặng, sẽ mãi mãi lầm lũi và cứ thế mà chết đi, mà trở thành một con ma trong nhà thống lí. Cho đến những đêm mùa đông rét mướt ấy. Mỗi ngày khi Mị dậy sớm ra ngồi sưởi lửa, Mị đều hé mắt trông sang và thấy A Phủ bị trói đứng ở đó. Tâm của Mị đã chết, đến sinh mạng của mình còn chẳng quan tâm nữa thì sao Mị lại để ý được đến chuyện của người khác chứ. Linh hồn của Mị sớm đã lụi tàn, chết lặng trong gia đình nhà thống lí rồi. Thế nhưng khi nhìn thấy giọt nước mắt lấp lánh trên khóe mắt của A Phủ, Mị lại thầm nghĩ rằng người kia vì sao mà phải chết, rồi Mị nghĩ mình đã là con dâu được người ta cúng trình ma thì mình phải chết ở đây nhưng A Phủ thì vô tội. Mị nhớ lại những lúc chính bản thân mình bị trói đứng đó, nước mắt chảy xuống không biết mà lau đi được. Bản thân họ: Mị cũng như A Phủ đều là những người vô tội, họ không làm gì sai trái, cả thanh xuân của họ đã lao động miệt mài, làm việc cật lực cho nhà thống lí. Vậy nhưng Mị vẫn không được sống là mình, vẫn bị bạo hành cả về thể xác lẫn tâm hồn. Nhưng Mị thấy oan khuất cho A Phủ. Hơn ai hết, Mị là người thấu hiểu hoàn cảnh của A Phủ, hiểu được nỗi oan khiên và khổ đau của anh. Mị thấy mình trong anh, và mong muốn giải thoát anh nảy sinh và trỗi dậy. Với Mị, có lẽ hành động giải cứu này cũng giống như việc Mị gửi gắm cả sự tự do và khát vọng sống của mình vào A Phủ, để con người ấy mang đi cả khát vọng sống, khát vọng tự do của Mị.

 

Hành động của Mị lúc này là hành động bộc phát nhưng cũng chính là hành động xuất phát từ sâu trong tâm tưởng của Mị, tưởng như Mị đã quyết định nó từ rất lâu. Với Mị, việc cắt dây trói cứu A Phủ của cô được quyết định trong chốc lát nhưng đó cũng chính là hành động cùng suy nghĩ trong sâu thẳm tâm hồn Mị vẫn hướng tới. Mị nhìn thấy số phận của Mị qua A Phủ, Mị giải thoát cho A Phủ cũng là gửi gắm ước mơ và hy vọng của mình trong cuộc chạy trốn của anh. Thế rồi sau khi thấy A Phủ quật cường vùng dậy chạy, Mị lại tiếp tục đuổi theo, lúc này bỗng dưng Mị hiểu ra rằng, nếu ở lại đây thì sẽ chết, nếu chạy mà bị bắt thì cũng chết nhưng ít ra điều đó còn cho Mị một cơ hội để sống, vì vậy Mị chạy theo A Phủ. Câu nói của Mị: “A Phủ, cho tôi đi, ở đây thì chết” đã cho thấy tình yêu với cuộc sống, khao khát sống mãnh liệt của Mị. Suy cho cùng, khát vọng sống và khát vọng tự do trong Mị vẫn cháy mạnh mẽ và đầy nhiệt huyết, điều đó khiến cho Mị không chỉ cứu được một mà còn tới hai sinh mạng con người, cho bản thân cô cùng A Phủ một cơ hội để đến với cuộc sống mới.

 

Trong lần hành động này, Mị cuối cùng cũng đã thành công. Sự thành công ấy là nhờ trong tâm hồn Mị, sức sống vẫn còn cháy, nó chỉ cần một tác nhân, một chất xúc tác để bùng phát. Mị hành động vừa có lí và có tình, tưởng chừng là bộc phát, nông nổi nhưng lại là những hành động sâu sắc và đầy đúc kết. Cũng nhờ có điều này mà giá trị nhân đạo của tác phẩm càng được đẩy lên một tầm cao mới nhân văn hơn.

 

4. Phân tích vợ chồng a phủ trong đêm tình mùa xuân

Phân tích vợ chồng a phủ trong đêm tình mùa xuân

 

Nhắc đến Tô Hoài là nhắc đến một cây bút với khả năng sáng tác dồi dào, phong phú ở nhiều thể loại, mà ở thể loại nào ông cũng để lại những tác phẩm, những dấu ấn xuất sắc từ truyện thiếu nhi, hồi ký, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim,... Ở mảng văn học hiện thực Tô Hoài đã ghi dấu ấn với tập truyện Tây Bắc bao gồm ba truyện ngắn nói về cuộc sống của người dân tộc miền núi phía Bắc những năm tháng trước cách mạng tháng tám. Trong đó Vợ chồng A Phủ là tác phẩm được biết đến nhiều nhất bởi những giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc được lồng ghép trong bối cảnh hiện thực đất nước lúc bấy giờ. Có thể nói rằng Tô Hoài chính là người tiên phong "mở đất" khi viết về đời sống của các dân tộc miền núi phía Bắc, đặc biệt hơn là đi sâu vào những bất hạnh và vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn của người phụ nữ dân tộc thiểu số dưới ách áp bức của cả cường quyền, lẫn thần quyền. Mị trong Vợ chồng A Phủ chính là một điển hình cho những số phận bất hạnh, đau khổ tột cùng của vùng trời Tây Bắc, cuộc đời Mị tưởng như đã chết từ khi bước chân vào nhà thống lý Pá Tra, thế nhưng với sức sống mạnh mẽ, khao khát tự do tột độ, trong đêm tình mùa xuân ấy, Mị đã thức giấc, bắt đầu phản kháng, tìm lối thoát cho riêng mình.

 

Mị xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, bố Mị phải đi vay tiền cưới vợ, món nợ ấy mãi đến khi Mị đã lớn khôn, trở thành một cô gái xinh đẹp, giỏi giang mà vẫn chưa trả hết nợ. Chính món nợ truyền kiếp khốn khổ đó đã kéo theo cuộc đời của Mị xuống những bất hạnh tột cùng. Vì để trả nợ cho cha, Mị phải chấp nhận làm con dâu gán nợ cho nhà thống lý Pá Trá, bị bắt ép chung sống với A Sử, người mà Mị không thương, chấp nhận từ bỏ tình yêu của cuộc đời.

 

Ngày đầu tiên về là dâu, Mị đã bỏ trốn về nhà, trong tay cầm nắm lá ngón chỉ muốn chết quách đi cho xong, Mị đã cố gắng vùng vẫy, phản kháng để chống lại số phận. Thế nhưng Mị chết rồi thì lấy ai trả nợ cho người cha già, cái hiếu, cái tình đã giữ Mị ở lại với cuộc đời này, thế nhưng Mị sống cũng chẳng khác nào cái xác không hồn, chỉ đơn giản là đang tồn tại. Mang tiếng về làm dâu nhà giàu, nhưng Mị sống không khác gì một nô lệ, làm việc quần quật không kể ngày đêm, liên tục từ mùa này qua tháng khác, chưa từng ngơi nghỉ đến một ngày. Cái khổ sở về thể xác cùng với sự hành hạ về tinh thần khi phải chung sống với người đàn ông vũ phu dường như đã giết chết trái tim, giết chết tâm hồn Mị. Mị tựa như một cỗ máy lao động, suốt mấy năm trời người ta chẳng nghe Mị nói chuyện lần nào, cứ lặng im, "lầm lũi như con rùa trong xó cửa", đi qua từng năm tháng khổ đau. Rõ ràng là một cô gái xinh đẹp có tài thổi sáo, tuổi đời tầm hai mươi thế nhưng lại sống như một nắm tro tàn, lạnh lẽo, đơn độc, thậm chí không còn cảm nhận được niềm vui sướng hay đau khổ bởi "ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi". Ấy vậy mà trong sự chai lì đến vô cảm, không thiết tha với cuộc đời, Mị vẫn còn nhận thức được cái khổ đau không bằng loài trâu ngựa của người đàn bà sống trong nhà thống lý Pá Tra rằng "Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày". Chi tiết nhỏ này đã khắc họa mạnh nỗi đớn đau, bất hạnh cùng cực không chỉ của riêng nhân vật Mị mà là của chung nhiều những thân phận đàn bà khác ở Hồng Ngài, là người nhưng sống kiếp không bằng loài vật nuôi, đớn đau đến tột cùng.

 

Không chỉ là nỗi đau về thể xác khiến Mị trở nên chai sạn, mà thực tế chính những vết thương trong tâm hồn mới khiến Mị trở nên thờ ơ với tất cả. Từ một cô gái xinh đẹp, thổi sáo, thổi lá giỏi, được biết bao chàng trai si mê, lại có một tình yêu đẹp tưởng như gần đâm hoa kết trái, Mị bỗng trở thành con dâu gán nợ, chịu cảnh chung đụng với một kẻ thô lỗ, bị giam cầm trong một căn phòng tối tăm chỉ có một ô cửa sổ bé bằng lòng bàn tay lúc nào cũng mờ mờ không biết là màu sương hay là màu nắng. Mị phải từ bỏ tất cả những mong ước của đời mình, từ bỏ cuộc sống tự do, chôn vùi tuổi trẻ trong cuộc hôn nhân gán nợ, lấy người chồng sang giàu nhưng chẳng khác nào địa ngục trần gian. Mị không có quyền được lựa chọn, không có một con đường nào khác, cô chỉ còn cách bọc mình lại trong cái vỏ chai lì, lầm lũi để tiếp tục những ngày tháng tối tăm, tuyệt vọng.

 

Những tưởng cuộc đời Mị cứ mãi thinh lặng, bế tắc và vĩnh viễn bị chôn vùi dưới cái ách của thần quyền và thần quyền, thế nhưng chính đêm tình mùa xuân cùng với tiếng sáo gọi bạn réo rắt - âm thanh của sự sống trong Vợ chồng A Phủ, dường như đã đánh thức tâm hồn Mị. Một tâm hồn chưa chết hẳn, nằm sâu trong nắm tro tàn ấy chính là những hòn than nóng bỏng, vẫn nồng nhiệt niềm khao khát được sống, được tự do của Mị, chỉ trực chờ ngày được phất lên ngọn lửa rực rỡ. Khi mùa xuân đến, những cô gái, chàng trai trẻ tuổi nô nức hẹn hò, người ta khoác lên mình những bộ váy áo màu sắc sặc sỡ, thổi sáo, thổi lá tình tứ suốt ngày này qua ngày nọ. Mị nghe thấy tiếng sáo vọng lại "thiết tha bổi hổi", trong vô thức mị bất chợt lẩm nhẩm theo bài hát của người vừa thổi, những câu hát mà có lẽ đã lâu lắm rồi Mị không còn nhắc tới. Có thể nói rằng, ở một chi tiết nhỏ này, người ta đã thấy được trái tim vốn chai sạn của Mị hình như đang dần sống lại, bởi lẽ làm gì có người nào lại hát khi tâm hồn đã nguội lạnh. Những câu hát ấy, dù không thành tiếng, thành lời thế nhưng nó lại là tiếng vang của tâm hồn, một tâm hồn khởi sắc, dần bước ra khỏi lớp vỏ chai lì bấy lâu nay vẫn mang.

 

Sự thay đổi trong tâm hồn Mị càng được bộc lộ rõ ràng thông qua chi tiết Mị uống rượu "Ngày Tết Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát". Trên thực tế Mị ở trong nhà thống lý Pá Tra không hề có một vị trí nào, cô sống cuộc đời còn bần cùng khổ sở hơn cả loài vật nuôi, thế nên việc uống rượu đối với Mị là một sự kiện xa xỉ, thậm chí nếu bị bắt được có lẽ Mị sẽ bị đánh trói, bắt phạt. Dù thế nhưng Mị vẫn lén lấy rượu uống, điều đó giống như là một sự phản kháng, Mị muốn đòi quyền lợi cho mình, cả nhà thống lý đều được uống rượu ăn Tết đủ đầy, Mị cũng muốn được như vậy, Mị muốn một lần được sống như con người ở cái nơi đã mang đến cho Mị biết bao nhiêu là đau khổ. Và cứ thế Mị uống rượu ừng ực, từng bát, uống không phải để thỏa mãn cái niềm khao khát, thèm muốn, mà dường như Mị đang cố uống cho trôi đi hết tất cả những uất ức khổ đau, cũng là cái cách mà cô thể hiện sự phẫn nộ, khó chịu trong lòng bấy lâu nay. Trong men rượu cay, Mị bỗng nhớ về những ngày xa xăm, khi Mị còn chưa bị ép làm dâu nhà thống lý, cô cũng có một cuộc sống tươi đẹp, tương lai đầy hứa hẹn, khi bản thân Mị là người con gái tài sắc vẹn toàn, chăm chỉ lao động, lại có một tình yêu đẹp sắp đơm bông. Thế nhưng chỉ trong một đêm tất cả đã trở thành ác mộng, càng nghĩ Mị lại càng ngẩn ngơ trong hoài niệm. Thế rồi người cũng về hết, còn lại một mình Mị ngồi trơ giữa nhà, trong lòng Mị bỗng nảy ra điều gì đó, Mị đứng dậy đi vào buồng "Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước". Tâm hồn tưởng đã chết của Mị đã thực sự sống lại một cách diệu kỳ, đã biết bao lâu rồi Mị không còn cảm nhận được cái cảm giác vui sướng, cái phơi phới của một tâm hồn son trẻ, có lẽ là từ lúc Mị bước chân vào nhà thống lý Pá Tra. Không chỉ là về cảm xúc mà dấu ấn chứng minh cho sự sống lại của tâm hồn Mị còn nằm ở nhận thức về cuộc đời về tuổi trẻ của mình "Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ", đồng thời bộc lộ thành khao khát, ước muốn rằng "Mị muốn đi chơi". Có thể nói rằng đến lúc này niềm khao khát tự do, khao khát được sống, được hưởng thụ cuộc đời của Mị đã bộc lộ một cách rõ rệt nhất. Mị không còn là người đàn bà trẻ tuổi sống lầm lũi, thinh lặng, chịu đựng trong nhà thống lý Pá Tra với khuôn mặt lúc nào cũng buồn rười rượi nữa, mà đã gần như khôi phục được sự sống quay về với bản tính con người trước kia, một cô gái trẻ đẹp, yêu đời, giỏi thổi sáo, bắt đầu dám phản kháng lại để giành lại hạnh phúc cho bản thân.

 

Thế nhưng không may rằng dù tâm hồn Mị đã được cởi trói, nhưng thân xác Mị vẫn nằm trong sự khống chế của cường quyền. Trong lúc Mị định thay vào chiếc váy rực rỡ để đi chơi thì A Sử về, nó không cho Mị cái quyền được chơi Tết mà tàn ác túm tóc Mị, rồi trói cô vào cây cột nhà bằng sợi đay, cắt đứt hết những niềm vui sướng vừa nảy nở trong tâm hồn người phụ nữ tội nghiệp. A Sử đi rồi, để lại một mình Mị với căn buồng tối đen, trong hoàn cảnh ấy cứ nghĩ rằng Mị sẽ sụp đổ và tuyệt vọng thêm một lần nữa, nhưng không, "Mị đứng im lặng, như không biết mình bị trói", lòng Mị vẫn đang nghĩ về những cuộc chơi, những đám chơi mà Mị khao khát. Dường như dây trói của A Sử có chặt hơn nữa, thì cũng chỉ giữ lại được thân xác này của Mị chứ không thể trói buộc được cái tâm hồn khao khát tự do mãnh liệt của cô. Mị bắt đầu phản kháng "Mị vùng bước đi" nhưng dây trói siết lại, "tay chân đau không cựa được", nghe tiếng ngựa đạp vào vách, Mị lần nữa ý thức được nỗi đau thân phận rằng bản thân thậm chí còn chẳng bằng con ngựa. Bởi lẽ, con ngựa còn được tự do đôi chân mà đạp vào vách, còn Mị cả chân tay đều bị trói cứng không thể cựa quậy, Mị chảy nước mắt, nghĩ về cuộc đời đau khổ của mình bằng một tâm thế xót xa, cái mà bao lâu nay Mị dường như đã bỏ qua.

 

Đêm tình mùa xuân đã kết thúc bằng việc Mị bị trói đứng trong buồng ngủ, thế nhưng đó không phải là sự kết thúc, mà thực tế rằng tất cả những sự kiện diễn ra tuần tự đều có ý nghĩa dần dà đánh thức tâm hồn đang nép kỹ trong lớp vỏ chai sần của Mị. Cho đến khi Mị hoàn toàn ý thức được nỗi đau thân phận, ý thức được giá trị của bản thân, cùng với niềm khao khát mãnh liệt được sống, được tự do, thì cũng chính là lúc Mị hoàn toàn sống lại một cách đúng nghĩa cả thể xác lẫn tinh thần. Sự kiện A Sử trói Mị chính là tiền đề, khởi đầu cho những sự phản kháng mạnh mẽ, tự giải thoát cho người khác và cho chính bản thân Mị, để tìm đến một cuộc đời, một tương lai mới tốt đẹp hơn.

 

Mị trong Vợ chồng A Phủ là một nhân vật điển hình cho nhiều đồng bào miền núi phía Bắc có số phận bất hạnh, phải chịu cảnh áp bức bóc lột của cả cường quyền và thần quyền trong giai đoạn trước cách mạng tháng tám. Với tình cảm gắn bó tha thiết và đôi mắt thấu hiểu của mình Tô Hoài không chỉ phản ánh hiện thực xã hội đầy khắc nghiệt mà còn thông qua đó bộc lộ những vẻ đẹp tiềm ẩn trong từng nhân vật, mà ở Mị là vẻ đẹp tài năng, nhan sắc, nhân cách, sự khao khát tự do mãnh liệt, tình yêu cuộc sống tha thiết, sự phản kháng mạnh mẽ đối với những bất công mà cô phải gánh chịu, để tự giải thoát cho chính bản thân và cả người khác.

 

Phân tích vợ chồng a phủ trong đêm tình mùa xuân

 

Với nhà văn Tô Hoài "Nhân vật là trụ cột của sáng tác, phải chuẩn bị nhân vật trước tiên" cho nên ông đã rất thành công khi xây dựng nhân vật Mị và A Phủ trong tác phẩm "Vợ chồng A Phủ". Ngòi bút miêu tả tâm lí của Tô Hoài đã đạt tới phép "biện chứng tâm hồn", điều đó được thể hiện rõ ràng qua diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân với nhiều cảm xúc khó hiểu nhưng ẩn chứa một sức sống tiềm tàng mãnh liệt.

 

Tô Hoài (1920) là một trong những cây bút văn xuôi hiện đại hàng đầu của nền văn học hiện đại Việt Nam với nhiều sáng tác phong phú thiên về phong tục và những sinh hoạt đời thường của con người. Tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" được viết năm 1952 và in trong tập "Truyện Tây Bắc". Đây chính là kết quả của chuyến đi với bộ đội vào giải phóng Tây Bắc dài 8 tháng của nhà văn khi được hòa mình vào những phong tục tập quán của người dân miền núi.

 

Mị là một cô gái xinh đẹp nhưng gia cảnh lại chẳng mấy giàu có. Thế nhưng cố vẫn rất yêu đời và có tài thổi kèn lá hay như thổi sáo. Trong những đêm tình mùa xuân "trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị" chứng tỏ mị có sức hấp dẫn như một bông hoa rừng Tây Bắc vậy. Người ta thường hay nói "Hồng nhan bạc phận" và với Mị cũng vậy, sóng gió bắt đầu ập đến với cô kể từ khi cô bị bắt làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Mị có thái độ phản đối trước những lệ tục cổ hủ, nghiệt ngã tồn tại trong xã hội phong kiến trước cách mạng, Mị nói với cha rằng "bố đừng bán con cho nhà giàu". Những ngày sống trong nhà thống lí, Mị cảm thấy mình không bằng thân con trâu, con ngựa, Mị "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa". Mị đã muốn tự tử nhưng nghĩ đến cha Mị lại không tự tử, sống trong cái khổ lâu dần Mị cũng không còn nghĩ đến cái chết nữa. Điều đặc biệt ẩn chứa bên trong của một cô gái tưởng chừng như yếu đuối ấy lại có một dòng nhựa sống vô cùng mãnh liệt. Tâm hồn Mị như được hồi sinh trong đêm tình mùa xuân với những giai điệu của tiếng sáo, tiếng nhạc và rồi sức sống của Mị được đẩy lên cao trào trong đêm đông, Mị đã cắt dây trói cứu A Phủ - người có cùng cảnh ngộ với Mị để cùng nhau trốn thoát khỏi nhà thống lí Pá Tra.

 

Thiên nhiên vốn là ngoại cảnh nhưng nó cũng có tác động vô cùng to lớn đối với tâm trạng của con người. Thiên nhiên Tây Bắc rạo rực khi xuân về khiến cho Mị cũng dần thay đổi, không còn u buồn như trước nữa. Khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc thật đẹp "gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng", "gió và rét rất dữ dội" cho thấy sự biến chuyển của đất trời đang từ mùa đông khắc nghiệt đang chuyển biến dần sang mùa xuân ấm áp. Cuộc sống của con người cũng thật sinh động bởi những màu sắc rực rỡ của "những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ", rộn ràng bởi tiếng cười đùa của đám trẻ trên sân chơi trước nhà hay những tiếng sáo lấp ló ngoài đầu núi như dội vào tâm hồn Mị. Mị ngồi nhẩm thầm lời bài hát của người đang thổi sáo. Lời bài hát tuy giản dị, mộc mạc nhưng hàm chứa lẽ sống đầy phóng khoáng, tự do của con người:

 

"Mày có con trai con gái rồi

 

Mày đi làm nương

 

Ta không có con trai con gái

 

Ta đi tìm người yêu"

 

Người ta thường chỉ hát khi có điều gì thôi thúc họ và Mị cũng hát vì có một mùa xuân đang thức dậy ngay cả trong lòng Mị. Có lẽ, tiếng hát trong lòng Mị chính là một biểu tượng nghệ thuật cho thấy sức sống bắt đầu được hồi sinh sau những chuỗi ngày Mị sống trong tủi nhục, u buồn. Mị uống rượu, Mị "cứ uống ực từng bát" như muốn nuốt hận vào lòng để quên đi thực tại và nén sâu nỗi xót xa tủi nhục vào trong lòng. Hơi men của rượu đã làm thức dậy trong đầu Mị những kỉ niệm ngày xưa "tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng", "có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị". Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm ngày trước. Đây là cảm giác vui sướng nhất của Mị trong suốt cả quãng đời khi Mị còn được tự do. Mị có ý thức rất rõ về mình "Mị trẻ lắm. Mị muốn đi chơi" như bao người có chồng vẫn đi chơi ngày Tết. Mị lại nghĩ đến cái chết, đây là lần thứ hai trong cuộc đời Mị nghĩ đến nó nhưng ý nghĩ đó vụt đến rồi vụt biến mất. Nếu như lần thứ nhất Mị nghĩ đến cái chết để giải thoát khi bị bắt về làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra thì lần thứ hai Mị nghĩ đến cái chết để tỏ rõ sự phản kháng mãnh liệt với hoàn cảnh bi đát của mình. Tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn còn văng vẳng bên tai Mị khiến cho Mị cũng chẳng buồn nghĩ đến cái chết nữa, nhịp sống của mùa xuân vẫn khơi dậy trong lòng Mị những ý thức muốn sống, cô có nhu cầu đi chơi.

 

Tâm hồn và thể xác của con người luôn là một thể thống nhất và không thể tách rời. Khi Mị vui Mị cũng muốn làm nhiều việc ý nghĩa cho cuộc đời mình hơn. Mị đến góc nhà lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ vào đĩa đèn cho sáng, ánh sáng của ngọn đèn trong căn buồng Mị chính là ánh sáng của sự sống, nó đang được chắt chiu trong cái khắc nghiệt của hoàn cảnh và Mị đã lấy ánh sáng trong lòng mình để thắp sáng cuộc đời. Mị cuốn lại tóc, với lấy cái váy hoa cho thấy sức sống của Mị đã được trở về với vẻ đẹp nữ tính. Điều này gắn với quy luật tâm lí của người phụ nữ khi có khát vọng về tình yêu trong cuộc sống thì họ rất có ý thức chăm sóc bản thân nhưng khi mất đi hạnh phúc thì họ không còn nâng niu, trân quý tài sản quý giá như vẻ đẹp nữ tính ấy nữa. Mị chuẩn bị mọi thứ cho tươm tất để được hòa vào sắc xuân như thời còn ở với bố, Mị cũng chuẩn bị đi chơi như bao người nhưng sức sống của Mị nhanh chóng bị đàn áp bởi A Sử. Hắn lấy cái thắt lưng trói đứng Mị vào cột nhà, tắt đèn và khép cửa buồng lại giống như việc đi chơi của Mị đã bị dập tắt ngay tại giây phút này. Ngay trong hoàn cảnh đó Mị vẫn sống với một trạng thái vô cùng lạ lùng "Trong bóng tối Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói", Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo còn vang bên tai nhưng Mị vùng lên để bước đi thì chân tay đau không thể cựa được. Tưởng chừng như A Sử trói Mị để cản bước cô đi chơi nhưng A Sử chỉ có thể cầm tù Mị về thể xác mà không thể trói buộc tâm hồn Mị. Tiếng sáo xuất hiện đã đưa Mị trở về với thực tại, giúp Mị ý thức được tình cảnh đau khổ "Mị không nghe tiếng sáo nữa", "Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa". Ngòi bút của Tô Hoài đã thật sự tinh tế khi miêu tả sức sống bền bỉ trong tâm hồn Mị, nó như một hạt mầm căng tràn nhựa sống để thức dậy xuyên qua lớp đất đá vươn tới bầu trời tự do khi mùa xuân về.

 

Để miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân, nhà văn Tô Hoài đã phát hiện ra hai mặt tưởng như đối lập mà thống nhất trong tính cách của nhân vật Mị. Đó chính là con người tưởng chừng như cam chịu nhưng lại có sức phản kháng mạnh mẽ, khao khát tự do hạnh phúc từng bước vươn dậy để tạo nên một sức mạnh không gì có thể hủy diệt được. Nhà văn đã thành công ở nghệ thuật khắc họa nhân vật. Ngòi bút của Tô Hoài đã diễn tả tinh tế, chân thực những biểu hiện tâm lí phức tạp đầy mâu thuẫn của Mị. Mị là kiểu nhân vật tâm trạng, được miêu tả chủ yếu ở đời sống nội tâm. Nhà văn đã sử dụng nghệ thuật trần thuật, truyện được kể chủ yếu ở ngôi thứ ba từ điểm nhìn của những người ở Hồng Ngài như hòa vào tiếng nói bên trong của nhân vật để nói lên nỗi lòng của Mị.

 

Nhân vật Mị trong "Vợ chồng A Phủ" chính là hiện thân cho sức sống của con người lao động miền núi trong chế độ cũ phải chịu nhiều áp bức, bóc lột. Nhà văn đã khám phá ra vẻ đẹp ẩn chứa trong tâm hồn của những con người bị vùi dập. Mị tưởng chừng như đã trở thành vật vô tri vô giác trong nhà thống lí nhưng vẫn tiềm tàng sức sống mãnh liệt trong đêm tình mùa xuân. Qua nhân vật Mị, ta thấy được niềm thương cảm của tác giả trước những thân phận bất hạnh, nhà văn đã phát hiện, trân trọng và khẳng định vẻ đẹp của họ khi họ hướng tới ánh sáng của cách mạng.

 

Phân tích vợ chồng a phủ trong đêm tình mùa xuân

 

Tô Hoài là một trong những cây bút văn học vô cùng xuất sắc, cho ra đời nhiều tác phẩm nổi tiếng và đưa vào giảng dạy. Trong cuộc đời hoạt động nghệ thuật của mình ông đã nhận được rất nhiều giải thưởng danh giá. Hơn 60 năm lao động nghệ thuật, ông có gần 200 đầu sách thuộc nhiều thể loại khác như như truyện kí, tiểu thuyết… Những tác phẩm văn học của ông thường có lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động, vốn từ giàu có và nhiều khi bình dân, thông tục. Khi đọc truyện người đọc cảm nhận thấy tác phẩm rất thật, rất chân thành, cảm nhận được tấm lòng nhà văn dành cho nhân vật của mình nên tác phẩm rất có sức hút lôi cuốn, lay động người đọc.

 

Một trong những tác phẩm để đời của Tô Hoài phải kể đến Vợ Chồng A Phủ và đoạn trích nổi bật nhất tác phẩm chính là diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân. Đây là đoạn trích thể hiện cho vẻ đẹp đầy sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người phụ nữ bị áp bức.

 

Sức sống tiềm tàng vốn là sức sống của con người, khi bị hoàn cảnh bên ngoài tác động vào dù là khó khăn, gian khổ thế nào cũng không thể che khuất đi, thậm chí sức sống ấy luôn thường trực như ngọn lửa, chỉ chờ cơ hội là bùng cháy, trỗi dậy. Sức sống ấy luôn có ở trong người con gái nhỏ bé vùng Tây Bắc – Mị trong tác phẩm Vợ chồng a Phủ của Tô Hoài.

 

Nếu đọc đoạn đầu tác phẩm ta sẽ thấy hình ảnh một cô gái lầm lũi ngồi quay sợi gai bên tảng đá. Cô gái ấy nhìn thiếu sức sống, sống mà như đã chết, ánh mắt chỉ nhìn về một hướng vô định. Dù cô gái ấy có làm gì đi nữa như thái cỏ ngựa, dệt vải hay chẻ củi, cõng nước thì cô ấy cũng cúi mặt buồn rười rượi. Thoạt đầu khi đọc tác phẩm, người đọc cảm thấy đây là nhân vật nhu nhược, sóng hèn và có lẽ bị tra tấn quá nhiều dẫn đến tinh thần không được ổn định và vô định.

 

Nhưng ngược dòng quá khứ, trở về thời cô Mị chưa làm dâu nhà thống lý Pá Tra chúng ta sẽ bắt gặp hình ảnh một cô gái tuổi đôi mươi, xinh đẹp, tràn đầy sức sống và hi vọng.

 

Mị xinh đẹp, Mị nhiều người yêu, người xếp ở ngõ nhiều đến nỗi bố mẹ không thể ngủ được vì tiếng chó sủa. Trai đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị. Mị là cô gái người Mông trẻ trung, hồn nhiên, Mị thổi sáo rất giỏi đến nỗi bao nhiêu chàng trai say mê “Mùa xuân đến, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác.”

 

Mị cũng có người yêu, Mị cũng muốn đi theo tiếng gọi của tình yêu, vì Mị còn trẻ. Mị ý thức được điều này nên Mị sống hạnh phúc, vui trẻ.

 

Không chỉ vậy, Mị còn rất hiếu thảo với cha mẹ. Khi biết cha mẹ muốn bán mình gán nợ Mị ý thức được tự do, cầu xin cha mẹ để Mị làm nương ngô trả nợ. Chỉ qua một vài yếu tố về cuộc đời của Mị trước lúc làm dâu nhà thống lý Pá Tra chúng ta cũng thấy được rằng Mị là người khao khát sống tự do, khao khát hạnh phúc và có sức sống mãnh liệt tiềm tàng.

 

Khi về làm dâu nhà thống lý Pá Tra, người đọc cảm thấy dường như sức sống ấy đã không còn. Vì chúng ta chỉ bắt gặp hình ảnh cô Mị lúc nào cũng buồn rười rượi, ánh mắt cúi xuống vô định. Muội bị bóc lột không khác gì trâu ngựa, trâu ngựa làm còn được nghỉ, được cho ăn, còn đàn bà nhà này thì chỉ biết vùi đầu vào công việc không được nghỉ ngơi. Ở nhà thống lý Pá tra không khác gì địa ngục trần gian với đủ loại cực hình như đánh, phạt, trói…

 

Trong hoàn cảnh như thế này, một cô gái mới lớn chưa trải sự đời chỉ biết sống qua ngày, lầm lũi như con rùa: “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông ấy mà trông ra. Đến bao giờ chết thì thôi.” Dường như chúng ta thấy cô Mị không còn sức sống nữa, phó mặc cho cuộc đời, cứ sống vậy đến khi nào chết thế là hết một đời.

 

Căn phòng Mị ở có khác nào buồng giam, chỉ có một ô cửa nhỏ duy nhất nhìn ra ngoài để thấy ánh sáng. Nhưng chính hoàn cảnh này đã làm nền cho sức sống mãnh liệt tiềm tàng trong Mị. Sức sống ấy chưa có đủ điều kiện để bùng cháy, trỗi dậy. Chỉ cho đến khi vào đêm tình mùa xuân, sức sống mãnh liệt trong trái tim người con gái nhỏ bé mới trỗi dậy để thay đổi cuộc đời Mị và A Phủ.

 

Trước đêm tình mùa xuân, khi mới về làm dâu sức sống mãnh liệt đã trỗi dậy đó là khi Mị về nhà và cầm theo lá ngón. Mị có ý định tử tự bằng lá ngón vì không chấp nhận được cuộc sống mất tự do.

Mị trốn về nhà, hai tròng mắt còn đỏ hoe. Trông thấy bố, Mị quỳ, úp mặt xuống đất, nức nở. Bố Mị cũng khóc, đoán biết lòng con gái:

 

– Mầy về chào lạy tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt trả nợ. Mày chết rồi không lấy ai làm nương ngô, trả được nợ, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được con ơi!

 

Mị chỉ bưng mặt khóc. Mị ném nắm lá ngón (một thứ lá độc) xuống đất. Nắm lá ngón Mị đã đi tìm hái trong rừng. Mị vẫn giấu trong áo. Thế là Mị không đành lòng chết. Mị chết thì bố Mị còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ.

 

Mị đã ý thức được sự tự do và ý nghĩa của cuộc sống. Sức sống ấy đã có cơ hội trỗi dậy nhưng lại bị dập tắt ngay vì lòng hiếu thảo còn cao hơn. Mị đành chấp nhận cuộc sống và có lẽ trong đêm tình mùa xuân lần này, Mị đã sống lại.

 

Mị nghe thấy những âm thanh bên ngoài cuộc sống, âm thanh của mùa xuân. Đó là tiếng trẻ con chơi quay, tin nghịch, đốt những lều quanh nương, tiếng sáo gọi bạn tình. Tất cả những âm thanh ùa vào trong tâm trí, đánh thức mọi kỉ niệm trong quá khứ của Mị. Mùa xuân những năm Mị chưa đi làm dâu, Mị cũng thổi sáo, cũng váy hoa, cũng nhiều người theo đuổi, Mị cũng yêu cũng có khát vọng được yêu và hạnh phúc. Tất cả như tái hiện lại rõ mồn một trong đêm tình mùa xuân. Mị lẩm nhẩm theo lời bài hát, đây là sự biến đổi đầu tiên trong tâm trí Mị. Một tâm hồn chai sạn, tự cho mình là con trâu con ngựa, sống quen với cái khổ rồi nên cũng không khao khát gì. Vậy mà hôm nay Mị lại nghe thấy âm thanh mùa xuân, nhẩm theo lời bài hát, nhớ tới thanh xuân tươi đẹp và khao khát tình yêu.

 

Mị đã ý thức được sự tồn tại của bản thân “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi.” Khi đã thấy được giá trị và sự tồn tại của bản thân thì đây chính là cột mốc quan trọng đánh dấu sự bứt phá trong tâm trí của Mị. Đó là Mị muốn chấm dứt sự tù đày này, Mị muốn được đi chơi.

 

Nhưng suy nghĩ muốn đi chơi vừa nảy ra chưa kịp hành động thì Mị đã bị A Sử bắt trói vào cột nhà “Tóc Mị xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột, Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong, A Sử thắt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi phẩy tay tắt đèn, đi ra khép cửa buồng lại”. Nhưng A Sử chỉ trói được phần xác của Mị mà thôi, còn tâm hồn của Mị đang bay lơ lửng theo tiếng sáo. Trái tim và tâm trí của mị đang sống lại mãnh liệt, Mị nào có quan tâm đến việc A Sử trói mình.

 

Có thể nói, Mị luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, sức sống ấy đã cháy âm ỉ trong lòng người con gái Tây Bắc và cơ hội đã đến để ngọn lửa khát khao sống bùng lên. Mị vẫn đang mơ về đêm tình mùa xuân, mơ về tự do “Trong bóng tối, Mị đứng im, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn. Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi”.

 

Mị cứ đứng như thế tới sáng mới bừng tỉnh. Cả một đêm bị trói mà Mị vừa mê vừa tỉnh, hơi rượu phả vào, tâm hồn vẫn thả theo tiếng sáo. Dường như khát vọng sống quá mãnh liệt đến nỗi con người ta quên đi đau thương của thực tại. Đến lúc bừng tỉnh, Mị mới biết mình bị trói, mới thấy đau. Mị lại trở về cái xác không hồn.

 

Nhưng sức sống ấy vẫn còn vẫn âm ỉ khi Mị sợ mình bị bỏ quên mà chết. Con người ta còn tham sống thì sẽ còn sợ chết và khao khát sống mãnh liệt hơn bao giờ hết. Mị nhớ đến câu chuyện nhà Thống Lý Pá Tra xưa có người vợ bị trói, chồng đi chơi ba ngày về thì người vợ đã chết “Mị sợ quá, Mị cựa quậy. Xem mình còn sống hay chết.”

 

Vẫn còn thấy mình đau nghĩa là còn muốn sống. Chỉ khi nào không còn muốn cảm nhận gì nữa, dù đau về thể xác hay tinh thần mà mình bàng quang không quan tâm thì có lẽ khi ấy, sức sống tiềm tàng không còn nữa và lụi tàn như đám tro tàn. Nhưng Mị vẫn còn cảm thấy, vẫn sợ chết, vẫn cựa mình và thấy cổ tay, đầu , bắp chân bị dây trói siết lại, đau đứt từng mảnh thịt.

 

Mở đầu tác phẩm là sự lầm lũi như con rùa của Mị và các tình tiết được đẩy dần lên làm trỗi dậy sức sống tiềm tàng trong con người Mị. Sức sống ấy luôn có và khi cơ hội đã búng cháy và trong đêm tình mùa xuân, người đọc đã cảm nhận rõ sức sống mãnh liệt của Mị. Phải thương và hiểu nhân vật của mình thế nào, Tô Hoài mới có thể tạo nên một tình huống đặc biệt, là nút mở cho câu chuyện, giúp cuộc đời của Mị sang một trang mới.

 

Phân tích vợ chồng a phủ trong đêm tình mùa xuân

 

Nhắc đến Tô Hoài, chúng ta không thể không nói tới tác phẩm văn học kinh điển “Vợ chồng A Phủ”. Đặc biệt khi phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân càng cho thấy qua nhân vật ấy, tác giả muốn gửi gắm những thông điệp vô cùng nhân văn.

 

“Vợ chồng A Phủ” được xem là truyện ngắn xuất sắc nhất của ông trong giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Câu chuyện xoay quanh nhân cuộc đời đầy biến cố và đau thương của nhân vật Mị và A Phủ dưới chế độ thực dân phong kiến thối nát. Tác phẩm nổi tiếng không chỉ nội dung sâu sắc mà còn ở tài sử dụng nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn. Mị là đại diện tiêu biểu cho cuộc sống cơ cực, tủi nhục của những người lao động thời bấy giờ. Nhưng đồng thời, qua Mị nhà văn Tô Hoài cũng chứng tỏ cho độc giả thấy ý chí đấu tranh, sự vùng lên tự giải phóng của đồng bào miền núi Tây Bắc.

 

Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân, đầu tiên phải nói tới phần mở đầu câu chuyện. Ở đây, nhà văn Tô Hoài đã cho Mị xuất hiện với dáng vẻ lầm lũi, cả ngày cúi đầu, không nói, không cười, như bóng ma nơi xó nhà. Thế nhưng, ông cũng không quên nhắc tới hoàn cảnh của Mị trước khi về nhà thống lý Pá Tra làm con dâu. Mị mồ côi mẹ, sống với cha già. Nhưng Mị xinh đẹp nết na. Mị đang tuổi thanh xuân, tràn đầy sức sống như đóa hoa rừng thơm ngát, đầy sắc thắm. Đêm nào, đầu giường Mị cũng có trai làng đứng nhẵn để tỏ tình. Những tưởng rằng, đời Mị sẽ ấm êm hạnh phúc. Thế nhưng, cuộc đời đâu biết trước được chữ ngờ.

 

Trong một đêm tình mùa xuân, Mị bị người ta lừa gạt, bắt cóc rồi trở thành con dâu gạt nợ cho gia đình. Từ đây, cuộc đời Mị chuyển sang một trang khác, tối tăm mù mịt và đầy rẫy sự tủi nhục, cô đơn, ê chề. “Có đến mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc. Một hôm, Mị trốn về nhà, hai tròng mắt còn đỏ hoe. Trông thấy bố, Mị quỳ, úp mặt xuống đất, nức nở”. Mị khóc cho số phận hẩm hiu của mình và nàng đã định tìm đến cái chết. Thế nhưng thương cha, Mị lại không nỡ. Mị lại trở lại nhà thống lý để làm con dâu gạt nợ. Đến lúc cha Mị chết đi, Mị cũng không còn thiết tha bỏ trốn nữa. Mị cứ sống như cái xác không hồn. Mị quên rằng thời gian vẫn không ngừng trôi. Mị vô cảm trước sự đời. Những tưởng rằng đời Mị như thế đã hết, nhưng không, trong đêm tình mùa xuân ấy, sức sống mãnh liệt bấy lâu vẫn ẩn dấu trong Mị như bừng tỉnh. Nó bùng lên dữ dội.

 

Mùa xuân trên rẻo cao thật đẹp. Dưới ngòi bút sắc bén của nhà văn, khung cảnh núi rừng Tây Bắc khi xuân về càng trở nên hấp dẫn, lôi cuốn kỳ lạ. “Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, rét càng dữ. Nhưng trong các làng Mông Ðỏ, những chiếc váy hoa đã được phơi ra mỏm đá, xoè như con bướm sặc sỡ”. “Ngoài đầu núi, đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi. Tiếng chó sủa xa xa. Những đêm tình mùa xuân đã tới”.

 

Đẹp thế, sống động thế bảo sao trái tim bao chàng trai cô gái không đập rộn ràng. Thế nên, thật không quá khó để hiểu vì sao, trong không gian, không khí đó, tâm trạng của Mị bỗng diễn biến phức tạp. Mị uống rượu. Mị lịm đi trước người nhảy đồng nhưng lòng Mị lại đang sống lại những ngày xưa, khi Mị còn trẻ.

 

Nhà văn đã cho Mị nghĩ “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Với cách dùng liên tiếp là những câu ngắn, câu khẳng định tác giả cho thấy tâm trạng Mị đang chuyển biến nhanh chóng và rõ rệt. Trái tim Mị nóng hổi. Lí trí Mị thôi thúc. Các mạch máu trong cơ thể Mị đang cuộn trào. Lúc này, Mị không chỉ cảm nhận được màu sắc rực rỡ, âm thanh rộn rã của mùa xuân mà Mị đã thực sự sống lại những ngày xưa.

 

Thực tại xót xa xen lẫn với quá khứ hạnh phúc khiến tâm hồn Mị rỉ máu. “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra. Mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường. “Anh ném pao/ Em không bắt/ Em không yêu Quả pao rơi rồi”. Lúc này đây, nhà văn Tô Hoài đã để Mị hiện ra với rất nhiều sự xáo trộn trong tâm trí. Mị bị giằng xé giữa buồn đau và vui sướng. Mị bị bóp nghẹt đến quặn đau giữa khát khao đi chơi với cảnh bị nhốt trong căn phòng tăm tối.

 

Nếu như đoạn đầu tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, nhà văn Tô Hoài đã để nhịp truyện trôi đi chầm chập với cảnh lầm lũi của Mị thì đến đêm tình xuân, diễn biến diễn ra nhanh chóng như một thước phim điện ảnh. Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân, sẽ thấy liên tục là những câu từ diễn tả sự chuyển động không ngừng. Mị say. Mị bừng tỉnh. Rồi “Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc. Mỵ với tay lấy cái váy hoa vắt phía trong vách. A Sử sắp bước ra, bỗng quay lại, lấy làm lạ. A Sử nhìn quanh thấy Mị rút thêm cái áo”.

 

Một loạt các hành động của Mị diễn ra, tuy không gấp gáp nhưng rất dứt khoát. Dường như Mị không để ý rằng A Sử đang ở sau mình. A Sử đang dõi theo mọi hành động của Mị. Toàn thân Mị, tất cả tâm trí Mị đều đã dành cho những chuyến đi chơi vào đêm tình mùa xuân cùng bè bạn năm xưa. Khi trong đầu Mị vẫn cứ chập chờn tiếng sáo thì cũng là lúc A Sử trói đứng Mị. “A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trới đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột. Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa”.

 

Bị trói, nhưng Mị vẫn câm nín, không thốt ra lời nào kể cả một ánh mắt thể hiện sự phản kháng. Ở đây, tác giả cho thấy, tất cả đều chỉ là hành động đơn phương của A Sử. A Sử vẫn luôn muốn giữ Mị làm của riêng của mình. Còn Mị, chẳng bao giờ quan tâm A Sử là ai. Trong đầu Mị không có hình ảnh của A Sử. Bởi vậy, mọi nỗi đau mà A Sử gây ra, đều không làm Mị bận tâm. Khác với Mị trước kia. Mị trong đêm tình xuân này dù im lặng nhưng trong tâm hồn đã biến đổi thành một Mị hoàn toàn khác. Đó là cô Mị đang mê đắm trong những kỷ niệm tình yêu, đang khát khao về một cuộc sống tự do, được là chính mình.

 

“Trong bóng tối, Mị đứng im như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn. Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào!” Mị vùng bước đi. Nhưng chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Việc gì cần làm Mị đã làm. Dù là trong cơn say, trong vô thức nhưng nhà văn Tô Hoài vẫn cho độc giả thấy, tương lai Mị sẽ thay đổi. Sự biến chuyển tâm trạng phức tạp trong đêm tình hôm nay là dấu hiệu cho một cuộc vùng lên đầy mạnh mẽ.

 

Khen thay cho tài năng xây dựng nhân vật của nhà văn Tô Hoài. Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân chúng ta càng thấy rõ hơn điều đó. Việc miêu tả chi tiết, đặc tả diễn biến tâm trạng và hành động của Mị cho thấy nhà văn đã thực sự nhập tâm vào nhân vật. Ông đã biến chính mình thành Mị đã suy nghĩ, để hành động và cảm nhận. Nhờ thế, mà nhân vật của nhà văn vô cùng sinh động, chân thực và có chiều sâu hơn về tâm lý. Sự thay đổi tâm lý, tâm trạng của Mị trong đêm tình ấy đã nung nấu trong lòng cô ngọn lửa đấu tranh, khát khao sống tự do. Nó mang tới cho bạn đọc thông điệp, tận sâu trong tim mỗi người luôn có một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Vì thế hãy sống sao cho ý nghĩa, đừng sống hoài sống phí.

 

5. Phân tích vợ chồng a phủ nhân vật mị

Phân tích nhân vật Mị - Mẫu 1

 

Tô Hoài là một nhà văn lớn, đóng góp nhiều thành tự cho văn học Việt Nam. Nếu như trước năm 1945, ông đánh dấu sự thành công với tập truyện “Dế Mèn phiêu lưu kí” thì sau năm 1945, tập "Truyện Tây Bắc" đã đưa tên tuổi của ông lên một tầm cao mới.

 

Tình cảm thiết tha, gắn bó, sâu sắc của Tô Hoài dành cho đất và con người Tây Bắc đã giúp ông viết nên những trang văn thấm đẫm tình yêu thương như thế. Truyện “Vợ chồng A Phủ” được trích trong tập Tây Bắc là câu chuyện tiêu biểu và mang nhiều giá trị tư tưởng lớn. Trong truyện, tác giả gửi gắm trọn vẹn nhất những tình cảm của mình vào nhân vật Mị, một cô gái đại diện cho vẻ đẹp và phẩm chất con người Tây Bắc.

 

Mị vốn là một người con gái tuổi đôi mươi của núi rừng Tây Bắc xinh đẹp và có tài thổi lá kèn hay như thổi sáo, được nhiều thanh niên trong làng mến mộ. Sức hấp dẫn của Mị tựa như những bông hoa rừng Tây Bắc đầy mê hoặc. Vào những đêm tình mùa xuân, trai bản đến đứng nhẵn cả vách đầu buồng Mị. Không chỉ xinh đẹp, ở nàng còn hội tụ những phẩm chất đẹp đẽ, đó là người con gái hiếu thảo với cha mẹ lại chăm chỉ trong công việc. Cuốc nương, làm rẫy Mị đều thuần thục.

 

Một cô gái tài sắc vẹn toàn như Mị xứng đáng được yêu thương, được hạnh phúc, nhưng Mị lại gặp phải hoàn cảnh trớ trêu. Bọn phong kiến tàn bạo đã khiến gia đình Mị lâm vào cảnh nợ nần chồng chất, gánh nặng phải trả nợ đè nặng lên đôi vai cô gái bé nhỏ. Song, chưa bao giờ Mị muốn phải bán mình để trả nợ, nàng cầu xin bố đừng bán cho nhà giàu, cô sẽ chăm chỉ làm nương, cuốc rẫy giúp bố trả nợ.

 

Nhưng xã hội cường quyền lại không cho phép Mị sống cuộc đời tự do ấy. Cuộc đời Mị phải chịu sự quyết định của kẻ khác, cuối cùng cô phải bán mình, bước chân vào nhà tên thống lí Pá Tra tàn ác chịu phận nô lệ trên danh nghĩa làm dâu xoá nợ. Một cô gái sẵn sàng hi sinh bản thân để cứu lấy cha mẹ, cứu lấy gia đình chứng tỏ Mị là cô gái hết mực hiếu thảo, yêu thương cha mẹ mình. Mị khát khao tự do, ý thức được nhân phẩm và giá trị bản thân nhưng cường quyền của chế độ phong kiến thối nát đã trói buộc cuộc đời cô.

 

Về làm dâu nhà Pá Tra, Mị phải âm thầm chịu đựng bao nỗi bất công, thời gian đầu, đêm nào Mị cũng khóc thương cho số phận, cho cảnh hẩm hiu của đời mình, nàng đã bỏ hết tất thảy để tìm đến cái chết bằng nắm lá ngón để giải thoát những uất ức, khổ đau kìm nén bấy lâu. Nhưng khi nghĩ về cha, thương cha nàng lại không đành lòng, đành phó mặc cuộc sống, chấp nhận cuộc đời cơ cực với kiếp nô lệ đau thương của mình.

 

Trong nhà tên A Sử, Mị chịu bao nỗi đau thể xác và tinh thần, Mị khổ cực hơn cả trâu cả ngựa, công việc làm triền miên ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác chẳng nghỉ ngơi. Mị như một cái máy gắn bó với công việc từ hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay đến đi bẻ ngô, gánh nước, kiếm củi,…, không việc nào là không tới tay Mị.

 

Thể xác bị bóc lột, tinh thần Mị cũng không sướng là bao, nàng suốt ngày “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, tinh thần bị tê liệt đến đau khổ, Mị ngày càng ít nói, câm lặng hơn, chẳng còn nhận thức về thời gian và cuộc sống ngoài kia. “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ bằng một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Dường như tuổi xuân của nàng bị khoá chặt trong ngôi nhà đó. Nàng ngày càng trở nên vô cảm.

 

Song, ẩn sâu trong con người Mị là một sức sống tiềm tàng không gì có thể ngăn nổi. Khi mùa xuân đến, không khí vui xuân ngày hội nơi bản làng Tây Bắc thật đẹp, thật tươi, khiến Mị bồi hồi nhớ lại những quá khứ tươi đẹp ngày xưa. Rượu và tiếng sáo rủ bạn tình khiến tâm hồn tươi trẻ của Mị như có dịp trỗi dậy, lòng Mị rạo rực sức sống mùa xuân "lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước".

 

Từ niềm rạo rực, phấn chấn ấy đã thôi thúc Mị hành động dứt khoát và quyết liệt vô cùng. Cô lấy ống mỡ bỏ thêm vào đĩa dầu để thắp đèn, thắp lên thứ ánh sáng xua tan đi bóng tối rợn ngợp bao trùm, xua tan màn đêm bấy lâu vây quanh cuộc đời Mị, nhen nhóm ngọn lửa hy vọng cho cuộc đời chính mình. Rồi Mị "quấn tóc lại với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách", Mị muốn được là mình, được là một cô gái đẹp đẽ như bao người con gái khác trong đêm mùa xuân ấy.

 

Trong lúc sức trẻ đang trỗi dậy, lòng yêu đời đang sung sức với Mị thì thực tại phũ phàng đã nhẫn tâm vùi dập niềm yêu ấy. A Sử khi biết lòng Mị muốn đi chơi, hắn đã chặn đứng ngay ý định đó. Hắn trói vợ vào cột nhà bằng một thúng sợi đay, quấn lấy mái tóc dài của Mị lên cột khiến cô đau đớn không thể cử động được. Nhưng thể xác dù bị trói buộc, bị hành hạ vẫn không thể trói lấy tâm hồn đang thiết tha cuộc sống của nàng, khát vọng sống vẫn âm ỉ cháy trong con người Mị.

 

Hành động mãnh liệt nhất của cô là cắt dây trói cho A Phủ. Trong cơn đau đớn, Mị xót xa cho phận mình, thương cảm cho phận người, đó là sự đồng cảm với những kiếp người cùng chung số phận. Chính giọt nước mắt của A Phủ đã thức tỉnh Mị, hồi sinh trái tim đầy những vết sẹo đau thương. Mị quyết định cùng A Phủ chạy trốn. Giải thoát cuộc đời mình khỏi những sức mạnh tàn bạo của cường quyền, của bọn thống lí thiếu tình người, đồng thời chấm dứt cuộc đời nô lệ tăm tối, thương đau của chính mình.

 

Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, khắc hoạ tính cách nhân vật qua suy nghĩ và hành động cùng lời văn nhẹ nhàng mà tinh tế, Tô Hoài đã xây dựng nên một hình tượng nhân vật Mị thật tiêu biểu và đặc sắc. Qua nhân vật, tác giả lên tiếng tố cáo chế độ áp bức tàn bạo, hà khắc của tầng lớp thống trị trong xã hội xưa và nói lên tiếng nói thương cảm trước những kiếp người chịu nhiều áp bức, bất công.

 

Tóm tắt tác phẩm văn xuôi là một trong số những kĩ năng quan trọng và cơ bản khi bạn tiếp cận với văn bản, vậy với yêu cầu Tóm tắt truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, bạn đã chọn những chi tiết truyện tiêu biểu nào để giúp bài tóm tắt của mình đầy đủ, hàm súc và chặt chẽ, giúp người khác có thể hiểu khái quát nhất nội dung mà không cần phải đọc cả tác phẩm?

 

Phân tích nhân vật Mị - Mẫu 2

 

Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam với số lượng tác phẩm đạt kỉ lục. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông. Tác phẩm có một giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể. Truyện viết về cuộc sống của người dân lao động vùng núi cao, dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân phong kiến miền núi. Đặc biệt truyện đã xây dựng thành công nhân vật Mị, qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng và khả năng đến với cách mạng của nhân dân Tây Bắc .

 

Vợ chồng A Phủ in trong tập truyện Tây Bắc (1954). Tập truyện được tặng giải nhất – giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954- 1955.Tác phẩm ra đời là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn cùng với bộ đội giải phóng Tây Bắc năm 1952. Vợ chồng A Phủ mở đầu bằng cách giới thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.

 

Cách giới thiệu tạo ra những đối nghịch về một cô gái âm thầm lẻ loi, âm thầm như lẫn vào các vật vô tri: cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào “buồn rười rượi”. Khuôn mặt đó gợi ra một số phận đau khổ , bất hạnh nhưng cũng ngầm ẩn một sức mạnh tiềm tàng.

 

Mị trước đó vốn là một người con gái đẹp. Mị có nhan sắc, và có khả năng âm nhạc, cô giỏi sáo và giỏi, uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Cô còn một tâm hồn tràn đầy khát khao cuộc sống, khát khao yêu đương. Quả thế, Mị đã được yêu, và đã khát khao yêu, trái tim từng đã bao nhiêu lần hồi hộp trước trước âm thanh hò hẹn của người yêu. Nhưng người con gái tài hoa miền sơn cước đó phải chịu một cuộc đời bạc mệnh. Để cứu nạn cho cha, cuối cùng cô đã chịu bán mình, chịu sống cảnh làm người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí.

 

Tô Hoài đã diễn tả nỗi cực nhọc về thể xác của người con gái ấy, con người với danh nghĩa là con dâu, nhưng thực chất chính là tôi tớ. Thân phận Mị không chỉ là thân trâu ngựa, “Con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở cái nhà ngày thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm”.

 

Song nhà văn còn khắc họa đậm nét nỗi đau khổ về tinh thần của Mị. Một cô Mị mới hồi nào còn rạo rực yêu đương, bây giờ lặng câm, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Và nhất là hình ảnh căn buồng Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng. Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô. Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi ở đây đã được cất lên nhân danh quyền sống. Cái chế độ ấy đáng lên án, bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của niềm vui sống trong những con người vô cùng đáng sống.

 

Mị đã từng muốn chết mà không được chết, vì cô vẫn còn đó món nợ của người cha. Nhưng đến lúc có thể chết đi, vì cha Mị không còn nữa thì Mị lại buông trôi, kéo dài mãi sự tồn tại vật vờ. Chính lúc này cô gái còn đáng thương hơn. Bởi muốn chết nghĩa là vẫn còn muốn chống lại một cuộc sống không ra sống, nghĩa là xét cho cùng, còn thiết sống. Còn khi đã không thiết chết, nghĩa là sự tha thiết với cuộc sống cũng không còn, lúc đó thì lên núi hay đi nương, thái cỏ ngựa hay cõng nước cũng chỉ là cái xác không hồn của Mị mà thôi.

 

Sức sống của Mị dường như mất đi. Nhưng bên trong cái hình ảnh con rùa lầm lũi kia dang còn một con người. Khát vọng hạnh phúc có thể bị vùi lấp, bị lãng quên trong đáy sâu của một tâm hồn đã chai cứng vì đau khổ, nhưng không thể bị tiêu tan. Gặp thời cơ thuận lợi thì nó lại cháy lên. Và khát vọng hạnh phúc đó đã bất chợt cháy lên, thật nồng nàn và xót xa trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi của tình yêu .

 

Bức tranh Hồng Ngài mùa xuân năm ấy có sức làm say đắm lòng người tuổi trẻ. Gió rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, sự biến đổi màu sắc kì ảo của các loài hoa đẹp đã góp phần làm nên cuộc nổi loạn trong một tâm hồn đã bấy nhiêu năm tê dại vì đau khổ. Tác nhân quan trọng là hơi rượu. Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị lén uống từng bát, “uống ừng ực” rồi say đến lịm người đi. Cái say cùng lúc vừa gây sự lãng quên vừa đem về nỗi nhớ. Mị lãng quên thực tại (nhìn mọi người nhảy đồng, người hát mà không nghe, không thấy và cuộc rượu lúc nào cũng không hay) nhưng lại nhớ về ngày trước (ngày trước, Mị thổi sáo cũng giỏi …), và quan trọng hơn là Mị vẫn nhớ mình là một con người, vẫn có cái quyền sống của một con người: “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”.

 

Nhưng tác nhân có tác dụng nhiều nhất trong việc dìu hồn Mị bềnh bồng về với những khát khao hạnh phúc yêu đương có lẽ vẫn là tiếng sáo bởi tiếng sáo là tiếng gọi của mùa xuân, của tình yêu và tuổi trẻ. Tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị, nó đã trở nên tiếng lòng của người thiếu phụ. Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận. Cho nên trong thời khắc ấy, ta mới thấy Mị đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng phơi phới nhưng Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên là được chết ngay đi.

 

Nhưng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi xuân cứ lớn dần, cho tới khi nó lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị, cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo giác: “Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi”. Phải tới thời điểm đó Mị mới có hành động như một kẻ mộng du: quấn lại tóc, với thêm cái váy hoa, rồi rút thêm cái áo. Tất cả những việc đó, Mị đã làm như trong một giấc mơ, tuyệt nhiên không nhìn thấy A Sử bước vào, không nghe thấy A Sử hỏi“.

 

Rồi cái gì đến đã đến. A Sử trói Mị vào cột, rồi lẳng lặng khoác thêm vòng bạc đi chơi, bỏ mặc Mị trong trạng thái mộng du đang chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác du xuân. Tâm hồn Mị đang còn sống trong thực tại ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức giấc mơ của kẻ mộng du. Cái cảm giác về hiện tại tàn khốc, Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân bước theo tiếng sáo mà tay chân đau không cựa được. Nhưng nếu cái mơ không đến một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng vậy. Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa cái mơ và cái tỉnh, giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng con ngựa đạp vách, nhai cỏ, gãi chân. Nhưng bây giờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn và tê dại dần đi, để sáng hôm sau lại trở về với vị trí của con rùa nuôi trong câm lặng, mà còn câm lặng hơn trước.

 

Nhưng có lẽ sức sống của Mị bùng lên mạnh mẽ nhất là lúc Mị cởi trói cho A Phủ. Cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ độc tài phong kiến miền núi. Những va chạm mang đầy tính tự nhiên của lứa tuổi thanh niên trong những đêm tình mùa xuân đã đưa A Phủ trở thành con ở gạt nợ trong nhà thống lí. Và bản năng của một người con vốn sống gắn bó với núi rừng, ham thích săn bắn đã đẩy A Phủ tới hiện thực phũ phàng: bị trói đứng. Và chính hoàn cảnh bi thương đó đã đánh thức lòng thương cảm trong con người Mị. Nhưng tình thương đó không phải tự nhiên bùng phát trong Mị mà là kết quả của một quá trình đấu tranh giằng xé trong thế giới nội tâm của cô. Mấy hôm đầu Mị vô cảm, thờ ơ với hiện thực trước mắt: “A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi”. Câu văn như một minh chứng sự tê dại trong tâm hồn Mị. Bước ngoặt bắt đầu từ những dòng nước mắt:“Đêm ấy A Phủ khóc. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai má đã sạm đen. Và giọt nước mắt kia là giọt nước cuối cùng làm tràn đầy cốc nước. Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ. Mị nhớ mình đã từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực. Mị cũng đã khóc, nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm không biết lau đi được. A Phủ, nói đúng hơn là dòng nước mắt của A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra mình, xót thương cho mình.

 

Và Mị đã nhớ lại mình, biết nhận ra mình cũng từng có những đau khổ, mới có thể thấy có người nào đó cũng khổ giống mình. Từ sự thương mình, Mị dần dần có tình thương với A Phủ, tình thương với một con người cùng cảnh ngộ. Nhưng nó còn vượt lên giới hạn thương mình: “Mình là đàn bà … chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi còn người kia việc gì mà phải chết ”. Mị cởi trói cho A Phủ để rồi bất ngờ chạy theo A Phủ. Lòng ham sống của một con người như được thổi bùng lên trong Mị, kết hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng cho mình. Mị như tìm lại được con người thật, một con người còn đầy sức sống và khát vọng thay đổi số phận.

 

Nhà văn Tô Hoài đã viết về Mị với tất cả lòng yêu thương, thông cảm, và chỉ có lòng yêu thương thông cảm, Tô Hoài mới phát hiện ra vẻ đẹp tiềm tàng trong tâm hồn những con người ham sống như Mị.

 

Vợ chồng A Phủ qua việc khắc họa sâu sắc cuộc đời, số phận, tính cách Mị đã tố cáo hùng hồn, đanh thép những thế lực phong kiến, thực dân tàn bạo áp bức bóc lột, đọa đày người dân nghèo miền núi. Đồng thời nó cũng khẳng định khát vọng tự do hạnh phúc, sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của những người lao động. Đặc biệt đề cao sự đồng cảm giai cấp, tình hữu ái của những người lao động nghèo khổ. Chính điều này đem lại sức sống và sự vững vàng trước thời gian của Vợ chồng A Phủ trong những ngày tháng sưu cao thuế nặng. Để có tiền nộp sưu cho chồng (thuế thân) và người em chồng đã mất. Chị Dậu đã phải bán con, chị Dậu tưởng khổ đến thế là cùng, nhưng người phụ nữ bất hạnh ấy còn có một gia đình.

 

Phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ - Mẫu 3

 

Con người sinh ra vốn đã được tạo hóa ban tặng cho quyền được sống, được làm người và quyền được mưu cầu hạnh phúc. Ý thức được điều đó, khao khát được hòa mình vào cuộc sống, con người đã vượt qua mọi trở ngại khó khăn, thử thách để hướng tới một điều thật ý nghĩa: sự sống. Nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài cũng đã phần nào biểu hiện điều đó. Bằng sức sống mãnh liệt, lòng khát khao được sống, Mị đã can đảm và tìm thấy sự sống cho chính mình.

 

Mị là một cô gái xinh đẹp, chăm chỉ làm việc và có tài thổi sáo giỏi. Chính vì thế mà cô gái ấy là niềm khao khát, ước mơ của bao nhiêu chàng trai: “Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Có thể nói, cuộc sống của Mị đang trên đà đơm hoa kết trái, một cuộc sống mà ở tuổi của cô ai cũng phải ao ước. Thế nhưng bước ngoặt của cuộc đời Mị đã dần chuyển sang hướng khác khi cô trở thành con dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra. Và người con gái đẹp ấy lại một lần nữa tỏ rõ tấm lòng hiếu thảo của một người con khi nghe lời cha, chấp nhận về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lý.

 

Tiếng là con dâu nhà thống lý nhưng ai cũng thấy được cô con dâu chẳng khác gì kẻ tôi đòi, phải làm việc quần quật suốt ngày đêm. Hình ảnh Mị thật tội nghiệp như một “con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa”, như “con trâu con ngựa nuôi trong chuồng, chỉ biết ăn cỏ, chỉ biết làm việc mà thôi”. Đối lập hoàn toàn với cha con nhà thống lý ăn chơi trác táng là hình ảnh cô Mị ngồi cạnh tàu ngựa, trước tảng đá, dù chẻ củi hay gánh nước từ dưới suối lên, lúc nào cũng cúi mặt buồn rười rượi. Sống trong nhà thống lý Pá Tra không phải là cô Mị trẻ trung, yêu đời như ngày xưa nữa. Chính thần quyền và cường quyền nhà thống lý đã giết chết tuổi thanh xuân, bóp nghẹt cuộc sống của Mị cả về thể xác lẫn tâm hồn. Lúc này, Mị không khác gì một cái xác không hồn vật vờ, làm việc như nữ nô, thành một kẻ hầu người hạ cho chồng mà có thể bị chồng đánh đập tùy hứng bất cứ lúc nào. Cuộc sống của Mị khép chặt trong căn buồng kín bưng, trông ra ngoài chỉ duy nhất có “một chiếc cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”.

 

Ý thức về cuộc sống của Mị dường như đã bị giai cấp phong kiến làm tê liệt. “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Điều này đã cho thấy con người nô lệ trong Mị vẫn còn sống, con con người thực của cô thì dường như đã chết. Mị không bày tỏ, không kêu than cũng không phản kháng gì, chỉ lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa và “chờ ngày chết rũ xương ở đây thôi”.

 

Thế nhưng, “ngoài đầu núi lấp ló, đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi”. Ta tưởng chừng như cô Mị đã trở nên vô cảm vô hồn, chỉ biết chấp nhận kiếp sống đọa đày nhưng không phải. Chính tiếng sáo gọi bạn trong đêm tình mùa xuân – biểu tượng của tình yêu và khát vọng sống – đã gợi dậy những sâu thẳm trong lòng Mị bấy lâu. “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát”. Cách uống rượu ấy như báo trước một cuộc nổi loạn mà chính bản thân Mị cũng chưa ý thức rõ: “Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, còn Mị thì đang sống về ngày trước”. Chính những ngày tháng tuổi trẻ nghèo khó nhưng tự do, vui vẻ và hạnh phúc đã khiến cho lòng ham sống của Mị trỗi dậy: “Mị thấy phơi phới trở lại”. “Trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo” và “Mị muốn đi chơi”. Từ chuyển biến trong suy nghĩ, Mị đã có một hành động thật ý nghĩa” “Mị đến góc nhà, lấy ống mở, xắn một miếng bỏ vào đền cho thêm sáng” và “với tay lấy cái váy hoa vắt ở vách” để chuẩn bị đi chơi. Hành động này có nghĩa là Mị đã thắp lên một ngọn đèn, soi rọi cuộc sống tối tăm triền miên của quá khứ, và giờ đây Mị muốn bước ra khỏi cuộc sống tối tăm ấy, đến với tiếng sáo và những âm thanh rộn rã ngoài kia để được sống là chính mình.

 

Vậy mà nghiệt ngã thay, khi Mị toan bước đi thì bị A Sử kéo lại, chẳng nói chẳng rằng liền trói Mị vào cột nhà. Và bây giờ Mị khóc, khóc cho cái oan trái của một kiếp người khao khát muốn sống, muốn yêu mà lại bị ghì chặt vào một cuộc sống “không bằng con ngựa”. Men rượu làm cho Mị say, Mị mơ màng giữa ý thức và thực tại cho nên cô có ý định “vùng bước đi. Nhưng chân tay đau không cựa được. Mị không còn nghe thấy tiếng sao nữa”. Chính thực tại đã bóp nghẹt những khát vọng tươi sáng. Kết cực ấy nói lên rằng, chỉ có những phản kháng tự phát thì nhân vật không thể tự giải thoát cho mình, đồng thời nó cũng bắt đầu khơi dậy cho những cuộc nổi loạn trong tương lai của nhân vật.

 

Ngọn lửa khao khát sống trong cô Mị thực sự bùng cháy khi tự tay cô cởi trói cho A Phủ. Chứng kiến cảnh A Phủ bị đánh đập dã man, và hình ảnh “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” đã khiến cho Mị chợt nhớ lại cái đêm mình cũng bị trói đứng vào cái cột thế kia, cũng nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ mà không cách nào lau đi được. Chính từ đó đã làm trỗi dậy trong Mị tình thương những người cùng cảnh ngộ. Mị đã thấy được cái bất công phi lý, sự tàn ác của cha con nhà thống lý và không muốn thấy thêm một cái chết oan ức, cho nên cô đã cởi trói cho A Phủ. Rõ ràng Mị đã suy nghĩ kỹ, đã lường trước những gì sẽ xảy ra. Cô đã sẵn sàng chịu trói và chịu chết thay cho A Phủ vì cô nghĩ rằng, chỉ có chết thì cô mới có thể được giải thoát khỏi kiếp sống tù, đớn đau nhục nhã này. Nhưng không phải. Khi thấy a Phủ chạy đi rồi, chạy đến một cuộc sống tự do, thì Mị bừng tỉnh hẳn. Mị không muốn chết nữa mà Mị muốn sống, phải sống cho nên “Mị vụt chạy ra” theo A Phủ. Giải thoát cho A Phủ, Mị cũng giải thoát luôn cho chính mình.

 

Qua việc khắc họa nhân vật Mị, Tô Hoài cũng đã phần nào tố cáo chế độ thống trị của bọn chúa đất, địa chủ phong kiến, ca ngợi phẩm chất cao đẹp của những người nông dân miền núi hiền lành, chất phác. Họ biết yêu cái đẹp, trọng lẽ phải để rồi vượt lên tìm lại chính mình.

 

Sức sống của nhân vật Mị được Tô Hoài khắc họa hết sức tài tình, độc đáo. Từ một con người dường như đã bị mất hết sức sống, nhưng với một nghị lực phi thường, một lòng ham sống mãnh liệt, Mị đã tìm thấy cuộc sống cho bản thân mình và dám đấu tranh với những thử thách để rồi vượt qua. Thật vậy, Nguyễn Khải cũng đã từng triết lý: “Ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để vượt qua những ranh giới ấy”. Con đường vượt qua những ranh giới của nhân vật Mị phần nào đã chứng minh cho chân lý ấy.

 

6. Phân tích vợ chồng a phủ học sinh giỏi

Phân tích Vợ chồng A Phủ học sinh giỏi - Bài mẫu 1

 

       Cùng sinh năm 1920 và đều là hai cây bút văn xuôi nổi tiếng, nhưng nếu Kim Lân là nhà văn “quý hồ tinh bất quý hồ đa” thì Tô Hoài lại có bút lực dồi dào không ngừng nghỉ. Đến năm 90 tuổi, ông vẫn không ngừng viết văn và để lại nhiều tác phẩm ấn tượng. Nổi bật trong số đó là “Vợ chồng A Phủ”.

 

       Tác phẩm xoay quanh không khí và văn hóa của đồng bào dân tộc miền núi phía Bắc Việt Nam. Cả tác phẩm là một cuộc trỗi dậy mạnh mẽ về tinh thần của người dân lao động khốn khổ chống lại áp bức bất công của giai cấp thống trị miền núi trước Cách mạng tháng Tám. Mở đầu tác phẩm câu chuyện về một cô gái:  “Cô con gái ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa cạnh tàu ngựa”, “dù làm việc gì, việc nhẹ hay việc nặng cô đều cúi mặt mặt buồn rười rượi”. Nghệ thuật giới thiệu nhân vật được tác giả sử dụng là phác họa ngoại hình mà thực chất để thể hiện thế giới nội tâm. Đây là một cách giới thiệu tạo sự chú ý của người đọc. Tác giả còn sử dụng thủ pháp tương phản: đặt nhân vật ở thế trái ngược với hoàn cảnh xung quanh khiến người đọc tò mò phải đặt ra các câu hỏi: “cô ấy là ai”, “tại sao cô ấy buồn”. Mị vốn là một cô gái dân tộc xinh đẹp và tràn đầy sức sống. Nhưng hoàn cảnh đưa đẩy khiến cô gái ấy trở thành con dâu gạt nợ của nhà Thống lí Pá Tra. Món nợ của bố Mị khi cưới mẹ Mị. Đây là món nợ truyền kiếp đối với người người lao động nghèo, nó chẳng khác gì một thứ tội: “tội tổ tông”. Đối với bọn phong kiến, đây là hình thức cho vay nặng lãi đẩy người lao động nghèo vào tình trạng bị bần cùng hóa. Gia đình thống lí lợi dụng hủ tục của miền núi (tục cướp vợ) để bắt cóc Mị. Bản thân cô Mị đang hồi hộp đêm hò hẹn đầu tiên, trong lòng đang ngập tràn hạnh phúc thì rơi xuống đáy sâu của nỗi bất hạnh. Bọn chúng còn lợi dụng tục “cúng trình ma” để hoàn chỉnh việc biến một người con gái xinh đẹp, có tài thổi sáo, hiếu thảo, chăm chỉ, tự trọng và nhất là yêu tự do, khát khao tình yêu trở thành một nô lệ. Thông qua đó, tác gỉa gián tiếp tố cháo sức mạnh của cường quyền và thần quyền đang đè nặng lên cuộc sống của nhân dân đồng bào miền núi.

 

       Cuộc sống của Mị ở trong nhà thống lí cũng là một chuỗi bất hạnh. Ban đầu Mị không chấp nhận mình trở thành con dâu gạt nợ, Mị phản kháng có phần tiêu cực: khóc, định tử tự. Nhưng vì thương cha mà mà từ bỏ ý định. Cuộc sống của Mị trong nhà thống lí bị bóc lột lao động một cách rất tàn tệ, phải làm việc như trâu, ngựa, thậm lí còn khổ hơn trâu ngựa: “con ngựa, con trâu… làm cả đêm cả ngày”. Dần dần, mị trở nên tê liệt ý niệm về thời gian. Căn buồng Mị nằm kín mít, cửa sổ lỗ vuông to bằng bàn tay trông ra bên ngoài chỉ thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng. Từ thời gian một ngày đến thời gian một năm, đến thời gian Mị làm con dâu nhà thống lí Mị cũng không còn xác định được nữa. Từ đó, Mị buông xuôi chấp nhận hoàn cảnh, một người tù khổ sai trung thân tàn đời, mãn kiếp là nô lệ bị giam hãm, bị trói buộc. Căn buồng Mị ở là một thứ “ngục thất tinh thần”. Đồng thời, ngôi nhà của cha con thống lí trở thành một cái thứ nhà tù không song sắt giam hãm, biến Mị thành nô lệ.

 

       Từ một cô gái gần như hoàn toàn tê liệt, sức sống tiềm tàng của Mị trỗi dậy trong đêm tình mùa xuân. Toàn bộ âm thanh, màu sắc, sức sống của đêm tình mùa đông đã làm trỗi dậy khao khát tự do và tình yêu của Mị. Bữa cơm tết cúng ma và bữa rượu tạo nên không khí của ngày tết. Tâm hồn Mị đã sống lại, ý thức về thời gian, về quá khứ về hiện tại. Tiếng sáo xuất hiện trong đêm tình mùa xuân như ngọn gió xuân, xua tan lớp tro tàn và khơi bừng lên những đốm lửa, khơi bừng lên ánh sáng hơi ấm trong tâm hồn Mị: Mị thấy phơi phới trở lại, Mị muốn đi chơi. Càng ý thức được hoàn cảnh, Mị lại càng tuyệt vọng. Khao khát muốn sống nhưng không được sống như cách mình mong muốn khiến Mị lần thứ hai nghĩ tới cái chết. Mị thắp sáng căn buồng như thắp sáng lại cả cuộc đời mình. Không chỉ vậy còn trải chuốt lại bản thân, quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa. Đây là bằng chứng rõ nhất của lòng ham sống, chứa đựng khát khao và hạnh phúc. Lập tức Mị bị A Sử trừng phạt: trói vào cột, quấn cả tóc lên cột. Ban đầu Mị còn không biết mình bị trói. Hơi rượu nồng nàn đã đưa Mị đến một cuộc dạo chơi bằng tâm tưởng: Mị thấy mình được tự do. Tiếng sáo càng vang vọng thì đối ngược lại là tiếng chân ngựa đạp vào vách. Mị thổn thức mình không bằng con ngựa. Chính trong hoàn cảnh bất cạnh ấy, Mị đã gặp được A Phủ. Hai người đều được coi là bước ngoặt của cuộc đời nhau. Vì nếu như không có Mị, A Phủ không thể được cứu sống và nếu ngược lại, Mị cũng không thể được thực sự “sống” trở lại.

 

       A Phủ được giới thiệu là một người mồ côi, một thân một mình, bị bán xuống đồng tháp, trốn trở lại đồng cao rồi lưu lạc đến Hồng Ngài. Từ nhỏ, A Phủ đã gan bướng, dũng cảm. Chàng trai lao động giỏi, không ngại những việc nặng nhọc, nguy hiểm, là niềm mơ ước của bao cô gái. Tuy vậy, A Phủ vẫn đi chơi ngày tết, mơ ước tìm bạn kết đôi. Cho thấy đây là một chàng trai khao khát hạnh phúc và tình yêu. A Phủ như đứa con, như cánh chim của núi rừng Tây Bắc. Nhân vật A Phủ bị rơi vào hoàn cảnh bất hạnh qua vụ xử kiện vô lí của gia đình nhà thống lí Pá Tra. Từ vụ xử kiện này, A Phủ từ một chàng trai tự do yêu đời trở thành một nô lệ tàn đời mãn kiếp cho nhà thống lí. Nguyên nhân cũng chính vì A Phủ dám cả gan đánh A Sử. Trong cảnh A Phủ đánh nhau với A Sử, Tô Hoài đã sử dụng một loạt động từ mạnh: chạy vụt ra, vung tay, ném, xốc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé áo, đánh tới tấp. Đọc đoạn văn này, người đọc có cảm tưởng được chứng kiến một cách đầy hả hê trận đòn của chàng trai nghèo trừng trị đám con quan cậy quyền, cậy thế.

 

       Tuy vậy, tất cả những mơ ước khát vọng đó đã chấm dứt khi chàng trở thành nô lệ của nhà thống lí. Bản án trong phiên xử kiện này: A Phủ ban đầu bị buộc tội chết rồi lại được tha. Với thống lí Pá Tra, A Phủ sống để làm việc trả nợ (nộp vạ 100 đòng bạc trắng). Chàng trai yêu tự do ngày nào bị biến thành con nợ truyền kiếp. Tuy sự việc khác nhau nhưng cách thức bị bó buộc và hành hạ về thể xác và tinh thần của hai nhân vật vốn không liên quan là Mị và A Phủ đều giống nhau. Đó là cách bọn cầm quyền, thống trị ở các địa phương đầy đọa người dân trước khi được Cách mạng giải phóng. A Phủ bị bắt làm các công việc nặng nhọc nguy hiểm, trở thành nô lệ không công do món nợ không biết đến ngày nào mới trả hết. A Phủ cũng không dám nghĩ đến việc trốn  do quyền lực khủng khiếp của nhà thống lí Pá Tra. Dù làm việc vất vả, khổ cực nhưng chỉ cần một sai lầm cũng khiến A Phủ phải chịu tội. Tai họa ập đến với A Phủ khi lỡ để hổ ăn mất một con bò. A Phủ bị trói vào cọc. Tính mạng của con người bị rẻ rúng chưa bằng một con vật. Nhà thống lí mất một con bò, nhưng A Phủ lại phải trả giá bằng mạng sống của mình. Đó là một hành động dã man, mất nhân tính của bọn thống trị, coi thường mạng sống của người lao động chân chính. Nhưng cũng chính từ sự bất hạnh này đã đem đến cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ và cảm xúc cho A Phủ và Mị.

 

       Từ một cô gái vô cảm, chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, mị vẫn thản nhiên: “A Phủ là cái xác chết vẫn thế thôi”. Nhưng khi nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ: “lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đây là một chi tiết nghệ thuật đắt giá khơi dậy tình yêu, sức sống của Mị. Mị lập tức nhớ lại cảnh mình bị trói trong đêm tình mùa đông mà không có một ai đến cứu. Có lẽ, giọt nước mắt của con người đã chạm đến trái tim của các nhà văn và họ luôn tìm cách để khai thác nó đem đến giá trị trong tác phẩm của mình. Chúng ta thấy cuộc gặp gỡ của hai cây bút văn xuôi hiện thực nổi tiếng Tô Hoài  và Nam Cao. Nam Cao cũng từng có một truyện ngắn mang tên “Nước mắt” và rất nhiều tác phẩm của Nam Cao, hình ảnh nước mắt có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Với Nam Cao, “nước mắt là giọt châu của loài người”, “nó có thể thanh lọc tâm hồn con người”. Phải chăng, khi miêu tả dòng nước mắt trên đôi gò má đã xám đen lại của A Phủ- một chàng trai người Mông gan góc, khỏe mạnh khác thường sắp trở thành một xác chết trên cây cọc nhà thống lí Pá Tra, Tô Hoài cũng nghĩ đến điều này?

 

       Chính nhờ giọt nước mắt này mà Mị đã quyết tâm cắt dây cởi trói cho A Phủ, giải thoát cho một con người sắp phải đứng trước bờ vực của cái chết. Nhưng khi cắt dây xong, Mị lại hốt hoảng, lo sợ vì chính mình sẽ phải chết thay A Phủ, chính mình sẽ bị trói vào cây cọc đó đến chết do sự tàn ác của nhà thống lí. Mị nhanh chóng quyết định sáng suốt: “ A Phủ cho tôi đi”, “ở đây thì chết mất”. Lòng ham sống, khát vọng sống và tình yêu thương của Mị đã cứu thoát cả Mị và A Phủ khỏi “địa ngục trần gian”. Họ đã cùng nhau xây dựng hạnh phúc trên miền đất mới và giác ngộ lí tưởng Cách mạng. Từ đó họ không chỉ là vợ chồng mà còn là những người chiến sĩ kề vai sát cánh bên nhau để tiêu diệt kẻ thù trở thành một biểu tượng của đồng bào dân tộc miền Núi.

 

       Tác phẩm “Vợ chồng” A Phủ đã để lại ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc: từ cốt truyện cho đến cách tác giả xây dựng nhân vật. Thông qua đó, nhà văn đã thể hiện sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người dân lao động vùng cao- niềm tự hào cho tâm hồn và phẩm chất của nhân dân Việt Nam.

 

Phân tích Vợ chồng A Phủ học sinh giỏi - Bài mẫu 2

 

       Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhau trên đất nước. Thành công nhất của Tô Hoài là những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống, con người vùng Tây Bắc. Tiêu biểu là truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm vừa là bức tranh chân thực về số phận bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức phong kiến và thực dân, vừa là một bài ca về sức sống và khát vọng tự do, hạnh phúc của con người.

 

       Truyện “Vợ chồng A Phủ được in trong tập “truyện Tây Bắc”. Tác phẩm gồm hai phần: phần đầu trích học trong sách giáo khoa là phần nói về cuộc sống đầy tủi nhục của Mị và A Phủ ở nhà thống lí Pá Tra, kết thúc bằng việc Mị cắt đứt dây trói để cứu A Phủ ở Phiềng Sa. Họ đi theo cách mạng giải phóng quê hương.

 

       Trước khi bị bắt về làm dâu nhà thống lí, Mị là người con gái đẹp, chăm chỉ, hiếu thảo, tâm hồn ăm ắp những khá vọng hạnh phúc. Mị thổi sáo và kèn lá rất giỏi nên có nhiều chàng trai say mê, đêm theo về nhà đứng nhẵn cả đầu vách. Khi bị bắt về nhà thống lí, Mị bị bắt làm con dâu gạt nợ, thực chất là nô lệ. Mị bị vùi dập, chà đạp, cướp đoạt tất cả mọi quyền, sống như kiếp vật. Mở đầu tác phẩm nhà văn đã mô tả hai nghịch cảnh: Mị ngồi quay sợi gai bên tảng đá, cạnh tàu ngựa. Suốt ngày làm lụng vất vả, dù quay sợi, thái cỏ, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước, Mị cũng cúi mặt, buồn rười rượi. Với cảnh nhà thống lí quyền thế, giàu có, người ra vào tấp nập “nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng”. Đây chính là thủ pháp tạo tình huống “có vấn đề” trong lối kể chuyện truyền thống giúp nhà văn mở lối dẫn người đọc cùng tham gia vào hành trình tìm hiểu những bí ẩn của số phận nhân vật.

 

Sống trong nhà thống lí, Mị bị cướp đoạt sức lao động, sống như một kiếp vật. Mị sống trong tủi cực đúng nghĩa với một kẻ nô lệ khổ sai. Có đến mấy tháng trời đêm nào Mị cũng khóc, suy ngẫm ấm ức, Mị tìm đến nắm lá ngón để giải thoát, nhưng trước những lời thống thiết của người cha già suốt đời nghèo khổ, lòng hiếu thảo trào dâng khôn xiết. Mị nén nỗi đau, chấp nhận quay về chịu kiếp ngựa trâu. Với thủ pháp so sánh tương đồng, nhà văn làm nổi bật cuộc đời cơ cực của Mị. Mị nghĩ mình cũng là con trâu con ngựa vì “là con ngựa phải đổi ở tàu ngựa nhà nà đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết ăn cỏ, biế đi làm mà thôi”. Nhà văn nhấn mạnh hậm chí Mị không bằng con râu, con ngựa vì “con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ”, còn kiếp đàn bà con gái trong cái nhà này thì làm quần quật cả đêm lẫn ngày, tới mức Mị nghĩ “ở lâu trong cái khổ, Mị quen rồi”. Công việc tuần tự ngày này qua tháng khác đơn điệu, tẻ nhạt,.. Mị chỉ biết cúi mặt làm không muốn nghĩ nữa, vật vờ tồn tại như cái xác không hồn. Mỗi ngày Mị càng không nói “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Hình ảnh con rùa lùi lũi gợi ta nhớ đến câu ca dao “Thương thay thân phận con rùa/ Ở đình đội hạc, ở chùa đội bia”, đó là ẩn dụ về thân phận phụ thuộc, cơ cực của người phụ nữ trong xã hội phong kiến mà Mị là số phận tiêu biểu. Căn buồng Mị ở tù túng, âm u, lạnh lẽo “kín mít, có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Rõ ràng đời sống tủi nhục, tăm tối đã lấn át, vùi dập con người Mị, con người trẻ trung ham yêu, ham sống ngày trước, đến nỗi chính Mị cũng không nhận ra. Đó là sự tha hoá của đời Mị mà do chính xã hội gây nên. Mị bị đọa đày cả thể xác lẫn tâm hồn. Chi tiết “một lỗ vuông” gây ám ảnh ngột ngạt, bức bối về một địa ngục trần gian, ẩn dụ cho một cuộc đời bế tắc. Nhà văn đã cất lên tiếng nói nhân quyền của con người để vạch trần, tố các tội ác của bọ chúa đất ở miền núi đã làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi niềm vui sống của con người.

 

       Mùa xuân về, Mị muốn đi chơi. Ước muốn của Mị vừa lóe lên đã bị A Sử dập tắt. A Sử trói Mị đứng suốt đêm trong căn buồng u tối. Dây trói xiết chặt làm da thịt Mị đau nhức như bị đứt ra từng mảng. Đau đớn, xót xa, Mị nghĩ kiếp mình không bằng kiếp ngựa. Kể từ đó tinh thần Mị càng rơi vào vô vọng. Mị đã phải sống với người chồng mình không yêu, không được yêu, Mị còn bị A Sử đánh đập, hành hạ tàn bạo. Khi A Sử bị A Phủ đánh, Mị phải vào rừng hái thuốc về xoa cho hắn. Vậy mà lúc đau mỏi quá thiếp đi, hắn co chân đạp thẳng vào mặt Mị – hành động đó chỉ có ở ác thú. Thật đau đớn và xót xa. Những đêm đông giá lạnh trên núi, nếu không có bếp lửa sưởi ấm làm bạn thì Mị đã chết tàn chết héo. Hằng đêm, Mị dậy thổi lửa, hơ tay không biết bap nhiêu lần. Có đêm A Sử chợt về, thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Hành động thật dã man, đó không phải là mối quan hệ vợ chồng mà là quan hệ chủ – tớ.

 

       Một trong những thành công của tác phẩm chính là nghệ thuật mô tả tâm lí và phân tích tâm lí của nhân vật. Ngòi bút nhà văn thật tinh tê và sâu sắc khi mô tả diễn biến tâm lí, sức sống tiềm tàng và sự biến đổi số phận của nhân vật. Mị – người phụ nữ tưởng chừng như cam chịu số phận, không còn đủ sức vượt thoát nhưng trong hoàn cảnh có thể, Mị vẫn bật lên làm chủ cuộc đời. Điều đó được biểu hiện ở chính đêm tình mùa xuân trên rẻo cao.

 

       Đêm tình mùa xuân đã đánh thức niềm yêu sống và khát vọng tự do trong Mị. Ngoài đầu núi, tiếng sáo gọi bạn đi chơi mà lòng Mị thấy bồi hồi xao xuyến. Hòn than bị vùi lấp dưới lớp tro tàn bấy lâu nay giờ được cơn gió xuân thổi tới làm bùng lên ngọn lửa yêu sống và khát khao tự do. Mị nhẩm theo bài hát, Mị uống rượu ừng ực từng bát như muốn quên đi bao nỗi đời cay đắng. Tiếng sáo và hơi men nồng của rượu đã đưa Mị trở về với quá khứ tươi đẹp, Mị nhớ lại khi xưa, Mị muốn được đi chơi, thổi kèn thổi sáo, nhảy múa cùng đám bạn. Mị thấy mình còn trẻ lắm. Cuộc sống trâu ngựa ở nhà thống lí bỗng vụt biến, Mị thấy không còn đáng sợ nữa. Kí ức tưởng như bị nhấn chìm, vùi dập đột nhiên bừng sáng, thôi thúc bao ước vọng trong Mị. Qúa khứ đẹp đẽ, thực tại phũ phàng khiến Mị lại muốn ăn lá ngón mà chết ngay đi để khỏi phải nghĩ, khỏi phải dằn vặt, đau khổ. Nhưng tiếng sáo gọi bạn vẫn réo rắt ngoài đường, xoáy sâu vào trái tim đầy thổn thức của Mị. Tiếng sáo như một ma lực cứ rập rờn, bay bổng, mê hoặc dẫn dụ Mị đi chơi. Mị không còn biết gì khác nữa, tinh thần Mị thăng hoa thoát hẳn đời sống thực tại. Mị xắn thêm mỡ vào đĩa đèn khơi cho ngọn đèn thêm sáng, búi lại mái tóc, với tay lấy cái váy hoa, chẳng cần biết A Sử đã bước vào buồng và hỏi “Mày muốn đi chơi à” trong lòng Mị khi ấy chỉ còn tiếng sáo và khát vọng tự do.

 

       Tô Hoài cảm nhận được ý thức đang sống dậy mạnh mẽ trong Mị. Mị nhận ra mình còn trẻ đẹp, nhận ra được thực trạng mất tự do, bị đè nén bấy lâu nay, nhận ra quyền làm người của mình đã đẩy Mị tới một hành động quyết liệt: đi chơi. Thoát khỏi chốn địa ngục tối tăm để được tự do đón gió trời xuân, hơi xuân, tìm lại những tháng ngày tươi đẹp đã mất. Nhưng khát vọng không thể cứu được số phận. Tấm thân mềm yếu của Mị bị sợi dây tàn bạo A Sử cuốn chặn vào cây cột trong căn buồng u tối cho tới sáng hôm sau. Bước chân vùng đi đã đánh thức Mị trở lại với hiện tại, sợi dây siết chặt vào da thịt đau nhức, Mị nhận ra sự thật tàn khốc. Giấc mơ đẹp vụt tan biến. Mị “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Hai biểu tượng của ước mơ tụ do và thực tại hiện ra qua hai âm thanh đối nghịch: tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết và tiếng chân ngựa đạp vào vách, tiếng chân ngựa đã bóp nghẹt trái tim Mị. Đau đớn, xót xa Mị nhận ra kiếp con người chẳng bằng kiếp con vật “Đời người đàn bà lấy chồng ở Hồng Ngài một đời chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng”.

 

       Khép lại khát vọng được đi chơi, được sống tự do trong những đêm tình mùa xuân, Mị lại rơi vào tình cảnh bi đát hơn trước đó. Mị bị dìm xuống sâu hơn kiếp ngựa trâu, bị tước đoạt quyền làm người. Cảnh ngộ ấy cũng là lời lên án tố cáo đối với hành động tàn độc của cha con thống lí – đại diện cho giai cấp thống trị ở miền núi.

 

       Khát vọng tự do của Mị trong đêm tình mùa xuân năm trước chưa được thực hiện thì trong đêm đông lạnh giá này, Mị quyết định cắt dây trói cứu A Phủ và giải phóng cho chính mình. Đây là bước đột biến quyết liệt làm thay đổi cả cuộc đời Mị. Xây dựng nhân vật Mị, nhà văn luôn đặt nhân vật vào thế đối lập giữa hoàn cảnh và số phận, giữa ngoại hình là nội tâm để từ đó đem đến cho người đọc những bất ngờ trong cách giải quyết. Từ sau cái đêm tình mùa xuân đầy nghiệt ngã ấy, Mị ngày càng trở nên chai lì, vô cảm, vô vọng. Cuộc đời Mị có lẽ cứ thế tiếp diễn nếu như không có sự xuất hiện của A Phủ. Cảnh A Phủ bị cha con thống thí trói đứng vào cột giữa những ngày Hồng Ngài rét buốt, bị bỏ đói khát đã làm thức dậy tinh thần phản kháng của người đàn bà yếu đuối tưởng như không còn sức sống này.

 

       Cảnh A Phủ bị trói trong đêm mùa đông làm một sự kiện làm thức tỉnh ý thức sống của Mị. Lại một đêm nữa Mị trở dậy, ngọn lửa sáng bừng lên cùng lúc, Mị lóe mắt trông sang thấy hai mắt A Phủ mở trừng trừng mới biết là A Phủ vẫn còn sống “một dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã sạm đen lại”. Đây là chi tiết đàu mối trong sự đột biến tâm lí của Mị. Mị chợt nhớ lại năm trước Mị cũng bị A Sử trói đứng trong cái nhà này, tóc bị quấn ngang cổ, nước mắt chảy xuống không lau được, đau đớn, bất lực chẳng khác gì A Phủ bây giờ. Trái tim đầy thương tích của Mị bỗng thấy thương người, thương thân. Mị quyết định cắt dây trói cứu A Phủ. Cắt dây trói, A Phủ quật sức vùng chạy, Mị đứng lặng trong bóng tối nhìn chiếc cột bỏ không, hoảng hốt, bàng hoàng nhận ra sự nổi loạn của mình. Cái chết chập chờn trước mắt. Với bản năng, Mị vụt chạy theo A Phủ và thổn thức “A Phủ cho tôi đi ! Ở đây thì chết mất”.

 

       Tình huống diễn ra mau lẹ, bất ngờ, tự nhiên nhưng rất logic, phù hợp với sự phát triển tính cách của nhân vật. Hành động cắt dây trói cho A Phủ là hành động cắt đứt, đoạn tuyệt với quá khứ khổ đau cho cả hai người. Như cánh chim sổ lồng tăm tối, họ băng băng xuống dốc núi, bay về phía tự do.

 

       Không như chị Dậu trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố, chị Dậu bơi trong đem tối như tiền đồ không lối thoát, không như Chí Phèo của Nam Cao, rút dao giết chết kẻ thù rồi kết liễu cuộc đời mình. Trong ngõ cùng bế tắc nhất, ý thức sống đã hóa thành một hành động phản kháng mãnh liệt, táo bạo, Mị vùng lên chống lại cường quyền, chống lại mọi sự áp bức, chà đạp, lăng nhục, vật hóa con người, cứu lấy cuộc đời, giành lại hạnh phúc mà Mị bị cướp đoạt và A Phủ đã từng khao khát. Từ đây cuộc đời của hai con người khổ đau đã được hồi sinh, mở ra một trang mới.

 

       Xây dựng nhân vật A Phủ trong tác phẩm, Tô Hoài muốn tô đậm thêm bức tranh hiện thực về đời sống cơ cực, tăm tối của đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao dưới ách thống trị của bọn thực dân, chúa đất

 

       A Phủ xuất hiện khá đột ngột gây ấn tượng mạnh cho người đọc, đó là cảnh A Phủ đánh A Sử. A Phủ cũng như Mị, họ đều là nhũng người dân nghèo bị gia đình thống lí Pá Tra áp bức, bóc lột và trở thành con nợ – nô lệ. Song ở họ đều có tình yêu và khát vọng giải phóng. A Phủ mồ côi cha mẹ khi mới lên mười tuổi trong một trận dịch khủng khiếp. A Phủ trở thành đứa trẻ bơ vơ bị người làng bán để đổi láy thóc ăn. A Phủ không chịu đã trốn lên vùng cao, làm thuê làm mướn kiếm sống và lưu lạc tới Hồng Ngài. Ngay từ nhỏ, A Phủ đã có cá tính rất đặc biệt: gan góc, có ý thức phản kháng mỗi khi không chịu nổi điều gì. A Sử phá đám chơi của A Phủ và bạn bè, A Phủ đánh “xộc tới nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp”. Sau hành động nhanh, mạnh, dứt khoát của ý thức phản kháng đó A Phủ bị nhà thống lí trói, đánh đập, chửi bới rất dã man trong cuộc xử kiện. A Phủ phải quỳ chịu trận trong làn mưa roi và khói thuốc phiện, không được nói, không được thanh minh. Cảnh xử kiện kết thúc, từ đây A Phủ phải làm nô lệ suốt đời cho nhà thống lí để trả nợ.

 

       Qua cuộc đời và số phận của A Phủ, Tô Hoài đã tố cáo tội ác dã man của giai cấp thống trị ở miền núi, tiêu biểu là cha con thống lí Pá Tra. Chúng đã cấu kết với bọn thực dân đẩy những con người hiền lành, chất phác vào tình trạng thảm hại, bị cướp đoạt sức lao động và quyền làm người, trở thành nô lệ không hơn không kém.

 

       Truyện “Vợ chồng A Phủ” là một sự thật về cuộc đời của những người lao động ở vùng cao Tây Bắc. Câu chuyện hấp dẫn và lôi cuốn người đọc qua cách kể truyện rất riêng của Tô Hoài. Mở đầu như một câu chuyện cổ tích nhưng lại là một mảnh đời, một số phận bằng xương, bằng thịt. Nhà văn đan xen giữa quá khứ và hiện tại gợi lên nhiều cung bậc cảm xúc cho người đọc. Nghệ thuật xây dựng và phân tích tâm lí nhân vật cũng là một thành công trong ngòi bút của Tô Hoài. Thông qua việc xây dựng hai hình tượng Mị và A Phủ nhà văn lên tiếng tố cáo thế lực thực dân phong kiến miền núi đã áp bức, đọa đày, cướp đoạt quyền sống và quyền hạnh phúc của con người

 

       Khép lại tác phẩm, Vợ chồng A Phủ đã để lại trong lòng người đọc vẻ đẹp của lòng nhân đạo, tình yêu thương, đồng cảm sâu sắc với những kiếp người nghèo khổ. Qua hai nhân vật Mị và A Phủ nhà văn đã làm hiện lên sức sống tiềm tàng, tinh thần phản kháng của những người dân lao động nghèo khổ, luôn đấu tranh để tìm đến ánh sáng của tự do.

 

Trên đây là những chia sẻ của mình về dàn ý và top những bài phân tích vợ chồng a phủ hay, ngắn gọn để các bạn có thể tham khảo nhé. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết của mình.




HỌC TIẾNG ANH QUA 5000 PHIM SONG NGỮ


Khám phá ngay !