Dàn ý và top 7 bài văn mẫu phân tích bài thơ bếp lửa hay nhất

Trong bài viết bên dưới mình sẽ chia sẻ với các bạn về các bài văn mẫu phân tích bài thơ bếp lửa sao cho chính xác và chi tiết nhất nhé?

 

1. Dàn ý phân tích bài thơ bếp lửa

1. Mở bài:

 

  • Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt sáng tác năm 1963, khi tác giả là sinh viên du học ở Liên Xô.

  •  

  • Qua dòng hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ gợi lại những kỉ niệm xúc động tình bà cháu, thể hiện tình cảm kính yêu và biết ơn vô hạn của cháu đối với bà, cùng là đối với quê hương, đất nước.

 

 

phân tích bài thơ bếp lửa

 

phân tích bài thơ bếp lửa

2. Thân bài:

 

* Phân tích:

 

- Hình ảnh bếp lửa gắn với những kỉ niệm vui buồn của tuổi thơ.

 

  • Bài thơ mở ra với hình ảnh bếp lửa, gắn liền với hình ảnh người bà tần tảo sớm khuya:

  •  

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm,


Một bếp lửa ấp iu nồng đượm,


Cháu thương bà biết mấy nắng mưa…

 

  • Bếp lửa khơi dòng hoài niệm, khơi dòng cảm xúc. Từ ấp iu gợi liên tưởng đến bàn tay khéo léo và tấm lòng kiên trì của người nhóm lửa. Người bà mỗi sớm nhen lên ngọn lửa, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác, suốt một đời…

  •  

- Hồi tưởng về thời gian được sống trong tình yêu thương, chăm chút của bà.

 

  • Cuộc sống nhọc nhằn của hai bà cháu trước cách mạng và trong kháng chiến, hàng loạt hình ảnh gợi tả, gợi cảm: đói mòn đói mỏi, khô rạc ngựa gầy, xóm làng bị giặc đốt cháy tàn cháy rụi… in đậm trong kí ức bi thảm của chú bé lên tám tuổi.

  •  

  • Cha mẹ đi kháng chiến, cháu ở cùng bà, được bà chăm sóc: Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học…

  •  

  • Tuổi thơ vất vả gắn liền với bếp lửa bập bùng, bếp lửa hiện diện như tình thương ấm áp, như sự cưu mang, an ủi của bà đối với đứa cháu nhỏ, như một phần cuộc đời gian truân của chính bà.

  •  

  • Tuy vất vả, nhọc nhằn nhưng bà vẫn vượt qua tất cả để các con yên tâm đánh giặc nơi chiến trường xa:

  •  

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen,


Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn,


Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.

 

Đến đây thì hình ảnh bếp lửa đã mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc: tình thương — sự sống — niềm tin bất diệt.

 

- Những suy ngẫm của người cháu về bà, gắn liền với hình ảnh bếp lửa hồng quen thuộc.

 

  • Tình cảm thương yêu và biết ơn chân thành: Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

  •  

  • Giữa người bà và bếp lửa như có những nét tương đồng. Bà là người ấp iu giữ lửa, người nhóm lửa để ngọn lửa của tình thương trong mỗi gia đình luôn cháy sáng, nối kết quá khứ, hiện tại, tương lai.

  •  

  • Cháu giờ đã trưởng thành, được chắp cánh bay xa nhưng luôn nhớ về bà, về bếp lửa của gia đình. Bếp lửa đã thành điểm nhớ, thành chỗ dựa tinh thần cho đứa cháu xa quê: Ôi kì lạ và thiêng liêng bếp lửa…

  •  

3. Kết bài:

 

  • Bài thơ Bếp lửa mang một ý nghĩa triết lí sâu sắc: Những gì là kỉ niệm thân thiết của tuổi thơ đều có sức toả sáng, nuôi dưỡng tâm hồn, nâng đỡ con người trong hành trình dài rộng của cuộc đời.

  •  

  • Tình cảm gia đình là cơ sở vững chắc của tình yêu quê hương đất nước.

  •  

2. Bài văn mẫu phân tích bài thơ bếp lửa

Phân tích bài thơ Bếp lửa- Mẫu 1

 

Mỗi chúng ta ai mà chẳng có quê hương, ai mà chẳng có một thời đong đầy kỉ niệm để nhớ, để thương, để là động lực không ngừng phấn đấu. Nhà thơ Bằng Việt trong những năm tháng học tập xa nhà vẫn da diết nhớ quê hương, với khói bếp lửa cay nồng hun nhoè mắt, cùng người bà tần tảo sớm hôm nuôi dạy cháu. Tất cả những kí ức đẹp đẽ của tuổi thơ đó đã được tác giả dồn nén trong từng câu chữ qua bài thơ Bếp lửa.

 

Bếp lửa là bài thơ được in trong tập thơ Hương cây, bếp lửa, in chung cùng nhà thơ Lưu Quang Vũ. Có thể nói Bếp lửa là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Bằng Việt. Ông sáng tác bài thơ này vào năm 1963, khi đang học tập tại Liên Xô.

 

Mở đầu bài thơ là hình ảnh ngọn lửa bập bùng cháy, ngọn lửa thực mà cũng chất chứa biết bao ý nghĩa:

 

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm


Một bếp lửa ấp iu nồng đượm


Cháu thương bà biết mấy nắng mưa

 

Một khung cảnh đơn sơ mà hết sức thân thuộc hiện lên trước mắt người đọc. Ngọn lửa cháy bập bùng kia gợi nhắc biết bao nhớ thương, lòng biết ơn của người cháu xa xứ đối với bà. Hai từ “ấp iu” gợi lên hình ảnh đôi bàn tay tảo tần của bà ngày ngày nhen nhóm ngọn lửa, thức khuya dậy sớm chăm cho cháu từng miếng ăn giấc ngủ. Và để từ đó trong cháu vỡ òa cảm xúc thương yêu bà vô tận:

 

“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa” .

 

Để rồi sau đó, biết bao kỉ niệm ùa về trong lòng nhà thơ, đó là những kỉ niệm mà tác giả chẳng thể quên. Về một nạn đói khủng khiếp đã cướp đi sinh mạng biết bao người dân Việt Nam:

 

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
 

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
 

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
 

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
 

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay

 

Khi mà hàng loạt người chết đói, thì bà vẫn kiên cường, tần tảo sớm hôm, cho cháu củ khoai, mót từng củ sắn, dành trọn miếng ăn cho đứa cháu vượt qua cơn đói cồn cào. Nỗi ám ảnh đó vẫn lần sâu trong tâm chí tác giả, cái đói ghê rợn ấy, mà giờ chỉ cần nghĩ lại sống mũi cháu đã cay. Cái cay ấy không chỉ là mùi khói, mà cái cay ấy còn là những giọt nước mắt thương xót cho những nỗi cơ cực, vất vả mà bà phải trải qua, là giọt nước mắt tri ân với tấm lòng bà dành cho cháu. Chỉ cần có bà thì mọi giông bão ngoài kia bà cũng chở che để vượt qua, bảo vệ cho cháu.

 

Tám năm xa cha mẹ, Bằng Việt sống cùng bà, cũng là tám năm bà bên cháu bảo ban, nuôi dạy cháu nên người:

 

“Mẹ cùng cha công tác bận không về,
 

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
 

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
 

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
 

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
 

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”

 

Câu thơ mà thực như là lời kể lời giãi bày của tác giả, nhưng cũng chỉ cần có vậy thôi đã nói lên tấm lòng, sự tận tụy của bà đối với cháu. Bà đã trở thành người cha, người mẹ dạy cháu khôn lớn, nên người. Cấu trúc “ba-cháu” cho thấy sự gắn bó khăng khít giữa. Nếu không có bà ở bên có lẽ cũng sẽ không có cháu thành công, nên người của thời điểm hiện tại. Tác giả đã dồn hết lòng kính yêu, sự tôn trọng dành cho người bà của mình.

 

Sang đến khổ thơ tiếp theo, khung cảnh chiến tranh trở nên khủng khiếp hơn, khi giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi, để trơ trọi lại chỉ là những mảnh tro tàn. Nhưng bà không khuỵu ngã, mà vẫn vô cùng kiên cường, dưới sự giúp đỡ của hàng xóm dựng lại túp lều tranh cho hai bà cháu có chỗ trú mưa trú nắng. Không chỉ vậy, sợ các con công tác ngoài chiến tuyến lo lắng, bà còn dặn trước Bằng Việt: “Bố ở chiến khu bố còn việc bố/ Mày có viết thư chớ kể này kể nọ/ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”. Những lời dặn dò ấy đã nói lên hết tấm lòng hi sinh cao cả của bà mẹ Việt Nam anh hùng.

 

Không chỉ chăm lo, bảo ban cháu, bà còn nhóm lên trong cháu những tình cảm thiêng liêng đẹp đẽ:

 

“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
 

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
 

Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
 

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
 

Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”

 

Khổ thơ với điệp từ nhóm vang lên bốn lần, đã tạo nên một khung cảnh thiêng liêng, ấm cúng và đầy tình yêu thương. Bếp lửa ấy dạy cháu biết chia sẻ, yêu thương những người xung quanh, bếp lửa ấy giúp cháu sống có mơ ước, khát vọng, vun đắp mơ ước cho cháu. Cũng bởi vậy, mà Bằng Việt phải tốt lên : “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa” . để khẳng định ý nghĩa vai trò của bếp lửa, hay chính của bà đối với cuộc đời mình. Để rồi ngọn lửa của hơi ấm tình thương theo cháu đi muôn ngả, giúp cháu vươn đến thành công trong bước đường tương lai. Dù đã đi xa, đến những nơi đẹp đẽ, cuộc sống sung túc nhưng cháu vẫn không bao giờ quên hình ảnh bà, và vẫn tự nhắc nhở bản thân:

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:

 

- Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?

 

Câu hỏi kết lại bài thơ như một lời nhắc nhở khắc khoải, khiến người đọc lưu giữ lại ấn tượng sâu đậm. Bằng ngôn từ mộc mạc, giản dị và tràn đầy cảm xúc Bằng Việt đã bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu sắc đối với bà. Đồng thời với bài thơ này cũng gửi gắm thông điệp về ý nghĩa tầm quan trọng của gia đình đối với mỗi người. Chúng ta phải nâng niu, trân trọng tình cảm thiêng liêng, cao quý ấy.

 

Phân tích bài thơ Bếp lửa - Mẫu 2

 

Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ Bếp lửa của ông.

 

Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Bài thơ Bếp lửa được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang đi du học ở Liên Xô. Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước. Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. ở nơi đất khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà:

 

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm


Một bếp lửa ấp iu nồng đượm


Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

 

Hình ảnh chờn vờn gợi lên những mảnh kí ức hiện về trong tác giả một cách chập chờn như khói bếp. Bếp lửa được thắp lên, nó hắt ánh sáng lên mọi vật và tỏa sáng tâm hồn đứa cháu thơ ngây. Bếp lửa được thắp lên đó cũng là bếp lửa của cuộc đời bà đã trải qua biết mấy nắng mưa. Từ đó, hình ảnh người bà hiện lên. Dù đã cách xa nửa vòng trái đất nhưng dường như Bằng Việt vẫn cảm nhận được sự vỗ về, yêu thương, chăm chút từ đôi tay kiên nhẫn và khéo léo của bà. Trong cái khoảnh khắc ấy, trong lòng nhà thơ lại trào dâng một tình yêu thương bà vô hạn. Tình cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như một dòng sông với con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm mà suốt cuộc đời này chắc người cháu không bao giờ quên được và cũng chính từ đó, sức ấm và ánh sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan tỏa toàn bài thơ.

 

Khổ thơ tiếp theo là dòng hồi tưởng của tác giả về những kỉ niệm của những năm tháng sống bên cạnh bà. Lời thơ giản dị như lời kể, như những câu văn xuôi, như thủ thỉ, tâm tình, tác giả như đang kể lại cho người đọc nghe về câu chuyện cổ tích tuổi thơ mình. Nếu như trong câu chuyện cổ tích của những bạn cùng lứa khác có bà tiên, có phép màu thì trong câu chuyện của Bằng Việt có bà và bếp lửa. Trong những năm đói khổ, người bà đã gắn bó bên tác giả, chính bà là người xua tan bớt đi cái không khí ghê rợn của nạn đói 1945 trong tâm trí đứa cháu. Cháu lúc nào cũng được bà chở che, bà dẫu có đói cũng để cháu không thiếu bữa ăn nào, bà đi mót từng củ khoai, đào từng củ sắn để cháu ăn cho khỏi đói:

 

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
 

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
 

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy

 

Chỉ nhớ khói, hun nhèm mắt cháu
 

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

 

Chính mùi khói đã xua đi cái mùi tử khí trên khắp các ngõ ngách. Cũng chính cái mùi khói ấy đã quyện lại và bám lấy tâm hồn đứa trẻ. Dù cho tháng năm có trôi qua, những kí ức ấy cũng sẽ để lại ít nhiều ấn tượng trong lòng đứa cháu để rồi khi nghĩ lại lại thấy sống mũi còn cay. Là mùi khói làm cay mắt người người cháu hay chính là tấm lòng của người bà làm đứa cháu không cầm được nước mắt?

 

Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm bếp


Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
 

Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
 

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
 

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

 

Cháu cùng bà nhóm lửa, nhóm lên ngọn lửa của sự sống và tình yêu bà cháy bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy. Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ. Đó là tiếng chim tu hú kêu. Tiếng tu hú kêu như giục giã lúa mau chín, người nông dân mau thoát khỏi cái đói, và dường như đó cũng là một chiếc đồng hồ của đứa cháu để nhắc bà rằng: Bà ơi, đến giờ bà kể chuyện cho cháu nghe rồi đấy! Từ "tu hú" được điệp lại ba lần làm cho âm điệu câu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả. Tiếng tu hú lúc mơ hồ, lúc văng vẳng từ những cánh đồng xa lâng lâng lòng người cháu xa xứ. Tiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài hơn, rộng hơn trong cái không gian xa thẳm của nỗi nhớ thương.'

 

Nếu như trong những năm đói kém của nạn đói 1945, bà là người gắn bó với tác giả nhất, yêu thương tác giả nhất thì trong tám năm ròng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, tình cảm bà cháu ấy lại càng sâu đậm:

 

Mẹ cùng cha bận công tác không về


Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe (...)

 

Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư, bố mẹ phải đi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng dường như đối với đứa cháu như thế lại là một niềm hạnh phúc vô bờ. Ngày nào cháu cũng cùng bà nhóm bếp. Và trong cái khói bếp chập chờn, mờ mờ ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện ra trong câu truyện cổ huyền ảo của cháu. Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng ước mơ của con vào một khung trời mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài lên ngực áo thì đối với Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cánh chim, là một cành hoa của riêng ông. Cho nên, tình bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá đối với ông. Trong những tháng năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên của cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính đầu tiên. Không chỉ thế, bà còn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm người. Những bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu. Người bà và tình cảm mà bà dành cho cháu đã thật sự là một chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu bé bỏng.

 

Cho nên khi bây giờ nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ cùng bà nhóm lửa, ai sẽ cùng bà chia sẻ những câu chuyện những ngày ở Huế... Thi sĩ bỗng tự hỏi lòng mình: "Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà?" Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ người. Chỉ trong một khổ thơ mà hai từ bà, cháu đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần gợi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đôi, gắn bó, quấn quýt không rời.

 

Phân tích bài thơ Bếp lửa - Mẫu 3

 

Tuổi thơ mỗi con người gắn với muôn vàn kỉ niệm bên người thân, bạn bè, bên cạnh đó là những cảm xúc, những tình cảm dành cho nhau để rồi khi mai sau lớn lên dùng tình cảm kỉ niệm ấy tiếp tục hành trang cuộc đời. Rất nhiều tác phẩm văn học thơ, truyện ngắn được các tác giả lấy cảm hứng từ tình cảm thiêng liêng ấy, tình cảm vợ chồng, tình mẹ con, tình đồng chí, tình yêu quê hương đất nước,... Tác giả Bằng Việt đã sáng tác bài thơ Bếp Lửa với tình cảm và niềm nhung nhớ dành cho người bà của mình khi đang du học tại Liên Xô vào năm 1963. Hình ảnh đứa cháu cùng người bà đã trải qua cuộc sống khổ cực nhưng tràn ngập tình yêu thương, chăm sóc, quan tâm, che chở trong những ngày bố mẹ đi làm xa và niềm hạnh phúc bên bếp lửa ấm áp tình thương.

 

"Một bếp lửa chờn vờn sương sớm


Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
 

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa"

 

Hình ảnh bếp lửa được khắc họa lên từ ba câu thơ đầu qua điệp ngữ "một bếp lửa" và từ láy "chờn vờn" khiến ta có thể hình dung ra được một khung cảnh đơn sơ, giản dị nhưng ấm áp, đầy ấp tình cảm. Ngọn lửa từ bếp ấp ôm bao niềm nhung nhớ về bà, chứa đựng biết bao kỉ niệm của người cháu nhỏ và bà. Người bà ân cần nhóm nhen ngọn lửa tình cảm ấy, cũng giống như đôi tay bà chăm sóc cho cháu nhẹ nhàng quan tâm, hình ảnh người bà như làn khói từ bếp vào mỗi buổi sớm mai, hình ảnh khổ cực chăm nuôi của bà dãi dầu mưa nắng càng thắp lên trong lòng người cháu rõ rệt vết hằn nỗi nhớ. Từ hai câu đầu qua hình ảnh bếp lửa mỗi sáng đã được tác giả khắc họa lên một bếp lửa chan chứa kỉ niệm, một bếp lửa đầy ấp tình yêu, một bếp lửa sáng rực lên hình ảnh bà. Đến câu tiếp theo bao nhiêu nỗi niềm như phút chốc vỡ òa "cháu thương bà biết mấy nắng mưa", tác giả đau lòng, xót xa trước nỗi nhớ về hình ảnh bà dù mưa dù nắng nhưng vẫn lo cho cháu đầy đủ từng cái ăn cái mặc, gian truân cuộc đời bà vì cháu mà trải qua không một lời nói, bà âm thầm vì cháu mà làm mọi việc, đều là những hy sinh thầm lặng từ người bà kính yêu. Từ đây ta thấy rằng trong trái tim tác giả hình ảnh người bà thiêng liêng biết là bao, có cả một vùng trời thương nhớ về người bà, một câu "cháu thương bà" cũng sẽ đọng lại trong ta một ý nghĩa sâu sắc.

 

"Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói


Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
 

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
 

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
 

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay"

 

Ở đoạn này, kỷ niệm không phải là hình ảnh nhẹ nhàng như "chờn vờn sương sớm" hay "ấp iu nồng đượm" mà là những kỉ niệm ám ảnh trong tâm trí tác giả, đứa cháu bốn tuổi cùng bà cơ cực trải qua nạn đói năm 1945. Không khí u ám, lầm than của nạn đói nhờ có người bà kính yêu đã được xoa dịu đi phần nào, bà tần tảo sớm hôm mót từng củ khoai, đào từng củ sắn để cháu ăn đỡ đói. Thành ngữ "đói mòn đói mỏi" nghe như tiếng kêu xé lòng, nỗi ám ảnh của một đứa trẻ hằng sâu trong tâm trí là nỗi sợ hãi. Không như bao người khi nghĩ về tuổi thơ của mình là mảng màu hồng, thì với tác giả đó lại là mảng màu xám pha cả màu đỏ của máu từ những nỗi đau của đói khổ, cái đói ghê rợn, cái đói lịch sử đã làm chết hơn hai triệu con người. Nhưng có bà luôn bên cạnh che chở, có khói bếp làm nhòa đi phần nào đau thương từ nạn đói, kỉ niệm vẫn mang chút hơi ấm, làm quên đi nỗi khốn khổ. Chi tiết "khói hun nhèm mắt cháu" để thấy được đứa trẻ bốn tuổi ấy cố lấp đi những ám ảnh của việc đói mòn mỏi bằng khói bếp của bà, và chi tiết "sống mũi còn cay" cay do mùi khói nghi ngút ấy đang cố che giấu đi mùi máu tanh ở các ngõ ngách, cay vì đứa trẻ ấy đã phải chịu cảnh "đói mòn đói mỏi" đang dần len lỏi vào từng mảng ký ức thơ ngây, mang theo nỗi đáng sợ của nạn đói, mang theo cả cảm giác thèm từng củ khoai, củ sắn, khi ấy những món ăn đơn sơ cũng trở thành "mỹ vị nhân gian".

 

"Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa


Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
 

Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
 

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
 

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế"

 

"Tám năm ròng" khoảng thời gian dài đằng đẵng cháu cùng bà vẫn luôn nhóm lên ngọn lửa yêu thương, nồng ấm, ngọn lửa của sự sống, khoảng thời gian đó dẫu trải qua khó khăn nhọc nhằn nhưng chỉ cần có bà vẫn thật bình yên. Tuổi thơ người cháu gắn với bà với bếp lửa yêu thương, gắn với cả tiếng tu hú kêu trên những cánh đồng, như thúc giục người nông dân mau ra ruộng thu hoạch thoát khỏi sự đói khát. Bên cạnh đó, khi tiếng tu hú kêu cũng như một tiếng chuông báo rằng: "Bà ơi! Bà kể chuyện cháu nghe." Từ "tu hú" được lặp lại ba lần như khẳng định nỗi nhớ của tác giả vì trong văn học nghệ thuật, tiếng chim tu hú là biểu tượng của một sự khắc khoải nhớ nhung da diết khôn nguôi. Tiếng tu hú trở thành một khoảng trời kỷ niệm nhẹ nhàng đậm tình yêu thương giữa tác giả và bà.

 

"Mẹ cùng cha công tác bận không về,


Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
 

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
 

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
 

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
 

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?"

 

Những câu thơ đơn sơ mộc mạc ấy vẫn nói lên được sự tận tụy của bà chăm lo cho cháu khi "mẹ cùng cha công tác bận không về". Hình ảnh bà như một người cha một người mẹ lo lắng chăm bẫm cho con mình, cũng như một người thầy dạy bảo học trò, bà cũng là cả một bầu trời yêu thương của tác giả. Cấu trúc "bà-cháu" thể hiện một tình yêu sự gắn kết của người bà với người cháu. Hình ảnh "bà dạy cháu làm", bà dạy cháu cháu cách làm người, dạy cháu tự lập cho cuộc sống của mình, bà dạy cháu yêu thương gia đình, và hình ảnh "bà chăm cháu học" bà dạy cho cháu từng nét chữ, bà cho cháu kiến thức mai sau giúp ích cho đất nước. "Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc" đứa cháu nhỏ lo lắng cho bà, nhìn thấy bà cực nhọc đứa cháu cùng bà nhóm lên bếp lửa giúp bà đỡ đi phần nào nhọc nhằn. Sau đó lại là lời trách tu hú của đứa trẻ thơ ngây, trách tu hú sao lại chẳng đến ở với bà, giúp bà đỡ đần công việc, để bà đỡ cô quạnh buồn tủi, mà tu hú cứ mãi ham chơi trên những cánh đồng kia.

 

Phân tích bài thơ Bếp lửa - Mẫu 4

 

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
 

Một bếp lửa ấp ưu nồng đượm”

 

Không biết vì lẽ gì hai câu thơ đó cứ theo tôi mãi trong suốt năm tháng xa nhà của mình. Mỗi lần nhớ về bà, nhớ về nhà tôi lại nhớ đến nó – nhớ đến “Bếp lửa” của Bằng Việt.

 

Bài thơ được sáng tác vào năm 1963 khi Bằng Việt đang đi du học ở nước ngoài. Đây là một trong những sáng tác đầu tay của ông nhưng ngay từ khi vừa mới ra đời cho đến nay “Bếp lửa” vẫn luôn có một vị trí riêng trong nền thi ca Việt Nam. Bài thơ được in trong tập “Hương cây – Bếp lửa” vào năm 1968. Đây cũng được xem như là một trong những thi phẩm hay nhất về tình bà cháu trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam.

 

Bố cục bài thơ đi theo mạch cảm xúc từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỷ niệm đến những suy ngẫm sâu xa. Bài thơ được mở đầu bằng hình ảnh bếp lửa, gợi về những hồi tưởng trong quá khứ để từ đó người cháu trưởng thành hơn, biết suy ngẫm hơn, thấu hiểu bà hơn để rồi gửi nỗi nhớ mong được gặp bà trong tình cảnh xa cách.

 

Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa quen thuộc của làng quê Việt Nam để từ đó gợi nhắc người cháu nhớ về bà:

 

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
 

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
 

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”

 

Ba tiếng “một bếp lửa” được lặp đi lặp lại ngay ở đầu bài thơ bởi lẽ hình ảnh này đã quá quen thuộc với làng quê Việt Nam, hơn nữa những kỷ niệm về bà cũng gắn liền với nó. Nhắc đến bếp lửa là nhắc đến bà, nhắc đến bếp lửa sẽ gợi cho tác giả những kỷ niệm về một người bà tần tảo sớm hôm bên căn bếp nhỏ. Bởi vậy, bếp lửa có thể coi như là khơi nguồn cho mạch cảm xúc của nhà thơ về bà của mình. Từ láy “chờn vờn” ở câu thơ trước đi liền với “ấp iu” ở câu sau vừa gợi cảm giác về một ngọn lửa bập bùng, ẩn hiện trong làm sương sớm vừa gợi đôi bàn tay khéo léo và tấm lòng ấm áp, đôn hậu của người nhóm lửa. Bếp lửa đã thắp lên trong cháu những kỷ niệm về bà, thổi bùng lên tình yêu thương và nỗi nhớ bà da diết khôn nguôi. Khổ thơ đầu ngắn ngủi kết thúc bằng tình cảm của người cháu. Chữ “thương” ấy đã lan tỏa ra từng câu từng chữ để rồi thấm vào tận sâu thẳm trái tim người đọc.

 

Bốn khổ thơ tiếp theo lần lượt là những ký ức về năm tháng cháu được sống bên bà. Đầu tiên là kỷ niệm của người cháu khi lên bốn tuổi:

 

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói


Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
 

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
 

Chỉ nhớ khói, hun nhèm mắt cháu
 

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”

 

Đoạn thơ vừa là ký ức về một tuổi thơ gian khổ của cháu vừa gợi nhắc về nạn đói khủng khiếp năm bốn lăm. Những câu thơ làm ta nhớ đến: “Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người” trong “Vợ nhặt” của Kim Lân. Và người cháu đã lớn lên trong tình cảnh như thế. Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” cùng với hình ảnh tả thực “khô rạc ngựa gầy” đã diễn tả vô cùng chân thực tình cảnh đói khổ, mệt mỏi, kiệt cùng sức lực mà nạn đói đã lấy đi của những con người trong thời kỳ đó. Thế nhưng, còn hơn cả cái đói, cái nghèo, hình ảnh mà người cháu nhớ nhất là khói – khói của những bếp lửa bập bùng, của những kỷ niệm về năm tháng đói khổ, cơ cực mà cháu đã cùng bà trải qua. Và dẫu cho năm tháng đó có trôi qua từ rất lâu thì những ký ức đó cho đến giờ vẫn khiến cháu cay xè khóe mắt khi nhớ tới. Vẫn là hình ảnh bếp lửa, bếp lửa mờ mờ khói nhưng đã khơi lên biết bao cảm xúc chân thật, bao tình cảm, bao nhớ thương và cả những giọt nước mắt nơi người đọc. Thơ là phải đi từ trái tim đến trái tim và tôi tin rằng những câu thơ này của Bằng Việt đã làm được điều đó.

 

Kỷ niệm về bà cứ thế theo cháu từng ngày, gắn liền với quá trình trưởng thành của cháu:

 

“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa


Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
 

Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
 

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
 

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”

 

Cái đói khổ chưa qua thì giặc ngoại xâm đã tới. Chiến tranh ác liệt, mẹ và cha đều bận công tác xa nha “Mẹ cùng cha công tác bận không về”, ngần ấy thời gian cháu lớn lên cùng bà. Không còn hình ảnh bếp lửa, không còn mùi khói cay xè mắt cháu, ký ức của cháu lúc này là tiếng kêu của những con chim tu hú trên trời cao. Mười một dòng thơ mà âm vang tiếng chim cất lên năm lần. Có lúc nghe mơ hồ, xa tít nơi “những cánh đồng xa”, có lúc lại gần gũi, thân thương “sao mà tha thiết thế”, lắm khi thì dồn dập, giục giã, lúc lại khắc khoải như than thở, sẻ chia… Tiếng chim không chỉ gợi ra một không gian mênh mông, bát ngát mà nó còn gợi cái hiu quạnh, lẻ loi của bà và cháu. Họ - một già, một trẻ đã phải nương tựa vào nhau mà sống hết những tháng ngày gian khổ của chiến tranh như thế. Nhưng dù có nghèo, có khổ thì người bà vẫn luôn hết lòng chăm lo cho đứa cháu của mình: “Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe/ Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”.

 

Những ký ức về bà lớn dần, lớn dần lan tỏa sang cả nỗi nhớ làng quê, nhớ đất nước:

 

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
 

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lũi
 

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
 

Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
 

Bố ở chiến khu bố còn việc bố
 

Mày viết thư chớ kể này kể nọ
 

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

 

Chiến tranh đã gây ra bao mất mát, đau thương nhưng không thể nào xóa nhòa được tình làng, nghĩa xóm. Trong những tháng ngày xa quê những ký ức về những người làng xóm đáng kính đã cùng hai bà cháu đi qua hết những năm tháng chiến tranh đang lần lượt hiện về trong tâm trí của cháu. Lời dặn dò “Mày viết thư chớ kể này kể nọ/ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!” cho thấy hình ảnh của một người phụ nữ tần tảo, giàu tình thương. Dẫu trong hoàn cảnh nào bà vẫn kiên cường để làm điểm tựa tinh thần cho người cháu, làm hậu phương vững chắc cho người con chiến đấu ngoài chiến trường.

 

Từ những hình ảnh bếp lửa cụ thể, gắn liền với cuộc sống, lời thơ chuyển sang cái trừu tượng của “ngọn lửa” với những tầng nghĩa mới:

 

“Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn,
 

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.

 

Ngọn lửa ở đây là ngọn lửa của tình yêu thương, của sức sống mãnh liệt, của tình yêu thương thầm lặng, của niềm tin vào tương lai đất nước. Điệp từ “một ngọn lửa” nối tiếp nhau đã tạo nên một nhịp thơ mạnh mẽ, chắc khỏe nhưng cũng rất lung linh và đủ sức làm ấm lòng người đọc. Để từ đó kỷ niệm tuổi thơ dần chuyển sang những suy nghĩ về bà bằng tất cả sự biết ơn của cháu. Sau bao nhiêu vất vả, khổ cực bà vừa là người giữ lửa vừa là người truyền lửa cho cháu. Bà “nhóm niềm yêu thương” trong cháu, truyền cho cháu tình yêu thương, cho cháu hiểu thế nào là tình làng nghĩa xóm, khơi dậy trong cháu biết bao điều tốt đẹp.

 

Khổ thơ cuối là lời tâm sự, bộc bạch của đứa cháu đã lớn khôn. Dù khoảng cách có xa xôi bao nhiêu, dù cho “khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” “Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở/ - Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?...”. Cháu luôn nhớ về bà bằng tất cả tình yêu thương, sự biết ơn và nỗi nhớ của mình.

 

Không phải ngẫu nhiên mà ngay từ khi vừa mới ra đời cho đến tận hôm nay “Bếp lửa” vẫn luôn có chỗ đứng riêng của nó. Bằng những hình ảnh chân thực cùng tất cả tình cảm chân thành Bằng Việt đã thật sự chạm đến trái tim người đọc qua từng câu, từng chữ của mình.

 

Mẫu 5 – Bài phân tích Bếp lửa hay nhất

 

Văn học ra đời giữa những vui buồn của con người và sẽ bầu bạn với con người cho đến tận thế. Mỗi tác phẩm nghệ thuật chân chính giống như một vũ khí cao quý và mạnh mẽ mà chúng ta có để thay đổi thế giới giả dối và tàn ác, làm cho tâm hồn con người trở nên trong sáng và phong phú hơn. Văn học truyền tải những tình cảm, cảm xúc cao đẹp, trong sáng cho tâm hồn con người hướng tới cái đẹp của chân, thiện, mỹ. Vì vậy, văn học giống như nguồn sống cho tâm hồn mỗi người. Những trang thơ làm giàu những cảm xúc ta đã có và làm giàu những cảm xúc ta chưa có. Bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt là một bài thơ như vậy. Còn viết về những tình cảm muôn thuở của con người đó là tình mẹ, tình yêu quê hương, đất nước ta đã gặp trong thơ ca dân gian, trong những trang văn hay của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông quê hương, những câu ca dao, tục ngữ về dòng sông quê hương tình mẫu tử thiêng liêng. Nhưng tìm đến thơ Bằng Việt, đâu đó vẫn làm rung động tâm hồn ta với những trăn trở riêng, vẫn ám ảnh và đầy ắp kỉ niệm về sự hy sinh của người bà cần mẫn và tình yêu thương của bà cháu.

 

Bằng Việt bắt đầu làm thơ từ những năm 60 của thế kỷ XX. Ông là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông toát lên vẻ đẹp thuần khiết, mượt mà “như tranh lụa”; rất nồng nàn và sâu sắc khi viết về những kỉ niệm tuổi thơ, những năm tháng sinh viên, tình cảm gia đình và ” Bếp lửa cũng không ngoại lệ. Tác phẩm được sáng tác năm 1963, khi tác giả là sinh viên luật tại Liên Xô, là tuyển tập thơ đầu tay của Bằng Việt.

 

Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ kỉ niệm đến hiện tại, từ hoài niệm đến chiêm nghiệm. Điều đó được gợi mở qua hình ảnh bếp lửa quê hương và hình ảnh người bà. Từ đó, người cháu (Bằng Việt) bày tỏ nỗi nhớ về những ký ức tuổi thơ được sống trong sự yêu thương, chăm sóc của bà. Đồng thời thể hiện lòng biết ơn, kính trọng của người cháu đối với bà, gia đình, quê hương, đất nước.

 

Trước hết là hình ảnh “bếp lửa” – nơi khơi nguồn cho những cảm xúc nhớ nhung, thương nhớ người bà kính yêu. Ở phương xa, người cháu luôn hướng về quê hương, nơi đó có gia đình, những người thân yêu, có bà ngoại và cả những kỷ niệm đẹp đẽ khi còn thơ bé. Và đoạn hồi tưởng xúc động ấy được bắt đầu bằng hình ảnh “bếp lửa” thân thương:

 

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm


Một bếp lửa ấp iu nồng đượm


Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”

 

Hình ảnh bếp lửa “chờn vờn sương sớm” giàu chất hiện thực, gợi hình ảnh ngọn lửa ẩn hiện bập bùng trong sương sớm. Những viên than hồng đỏ đầy cảm xúc được nhóm lên bởi bàn tay hiền lành, cần cù, khéo léo và trái tim nhỏ bé của người bà. Đồng thời, ngọn lửa ấy cũng đọng lại trong tâm trí, trong nỗi nhớ đầy ám ảnh của nhà thơ, nâng niu, trân trọng và gìn giữ. Từ đó, đánh thức trong lòng người cháu nỗi nhớ da diết đối với người bà – người nhóm lửa mỗi sớm mai:

 

“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”

 

Cụm từ “biết mấy nắng mưa” diễn tả đức tính cần cù, chịu thương, chịu khó, đức hi sinh của người bà. “Tình” là tình cảm chân thành, xuất phát từ trái tim giàu tình yêu thương, sẻ chia, chứa đựng lòng kính trọng, lòng biết ơn sâu sắc, nỗi nhớ da diết của người cháu đối với bà.

 

Như vậy, với ba câu thơ mở đầu tác phẩm, Bằng Việt đã bày tỏ nỗi nhớ da diết về bếp lửa quê hương và người bà kính yêu. Có thể coi đây là khúc dạo đầu cho việc viết về nỗi nhớ. Từ đó định hướng cảm xúc cho toàn bài viết. Bài thơ sẽ là những suy nghĩ, hoài niệm của người cháu về bếp lửa, về người bà và cả những kỉ niệm vui buồn khi còn ở bên bà.

 

Nhắc đến tuổi thơ, có lẽ trong mỗi chúng ta thường nghĩ đến những năm tháng hồn nhiên, trong sáng và thuần khiết khi được sống trong sự đầy đủ cả về vật chất lẫn tình cảm của cha mẹ và những người thân yêu. Nhưng với những thế hệ như lớp nhà thơ Bằng Việt, sao có thể thế được khi họ phải sống trong những năm tháng chiến tranh loạn lạc, sự sống và cái chết trong gang tấc. Bởi vậy, khi nghĩ về tuổi thơ, những ký ức trong ký ức như một thước phim quay chậm lần lượt hiện ra trong tâm trí Bằng Việt với biết bao thiệt thòi, vất vả, thiếu thốn, khổ cực. Ký ức đầu tiên đó là khi cháu bốn tuổi:

 

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
 

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
 

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
 

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
 

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”

 

Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” mô tả tình trạng đói kéo dài gây mệt mỏi, lờ đờ và kiệt sức. Vì thế, cái đói khiến con ngựa gầy guộc, hình ảnh người cha đánh xe ngựa cũng héo hon, tiều tụy, xanh xao, tất cả đều khiến người đọc chạnh lòng khi nhớ lại. Năm Ất Dậu 1945 xảy ra nạn đói khủng khiếp. Lúc đó tác giả ở với bà ngoại và cùng bà đốt lửa, khói bếp cay xè cả mắt”, giờ nghĩ lại cây cầu của tôi. Sống mũi còn cay.” Làn khói ấy đậm đà, in sâu vào tâm trí đứa cháu hay chính là những gian nan, vất vả của đói nghèo, chiến tranh, loạn lạc trong tuổi thơ của cháu, nước mắt và dày đặc khói thuốc giọng thơ trầm thấp đượm một nỗi buồn chua xót khi nỗi nhớ tuổi thơ tràn về trong lòng nhà thơ khiến “sống mũi vẫn cay cay”.

 

Tiếp theo là những dòng hoài niệm về 8 năm dài đằng đẵng thời chiến với bà:

 

“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
 

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
 

Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
 

Bà hay kể những ngày ở Huế
 

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
 

Mẹ cùng cha công tác bận không về
 

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
 

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
 

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
 

Tu hú ơi! chẳng đến ở cùng bà
 

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”

 

Tiếng chim tu hú quen thuộc ở quê mỗi độ hè về lại xoáy vào lòng người xa xứ. Tiếng tu hú được tái hiện với nhiều cung bậc, nhiều tình huống khác nhau: có khi vọng lại từ cánh đồng xa (ruộng xa) gợi một không gian rộng lớn, bao la và tĩnh lặng ; có khi tất bật, lo âu làm người ta sống lại những kỷ niệm xa xăm (Hỏi em có nhớ không, có nhớ những ngày ở Huế); có khi thật giả, nỗi nhớ đến cánh đồng khô lạnh, heo hút (gọi nỗi nhớ cánh đồng xa)… Tiếng chim tu hú trở thành điệp khúc chủ đạo của những dòng hoài niệm tám tuổi, có tác dụng gợi tả không gian sống yên tĩnh, hấp dẫn, bao la; vừa gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn trống vắng đến da diết, choáng ngợp. Tuy nhiên, tuổi thơ của đứa trẻ vẫn thấm đẫm tình yêu thương và sự chăm sóc của người bà thân yêu. “Bố mẹ bận công việc không về”, hai bà cháu nương tựa vào nhau. Bên bếp lửa, bà kể chuyện, dạy bảo, chăm sóc cho cháu. Các động từ: “bà dặn, bà dạy, bà chăm” thể hiện sâu sắc và sâu sắc tình thương yêu bao la, sự quan tâm của người bà dành cho đứa cháu của mình. Vì thế, bà trở thành nguồn hơi ấm, niềm an ủi, nuôi nấng, che chở, gìn giữ tổ ấm gia đình.

 

Những năm tháng đất nước có chiến tranh, khó khăn, ác liệt và biết bao đau thương, mất mát luôn in đậm trong tâm trí người cháu. Và có một kỷ niệm trong ký ức mà người cháu dù đã trưởng thành vẫn không bao giờ quên:

 

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
 

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
 

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
 

Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh
 

“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
 

Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,
 

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

 

Nỗi đau đớn tột cùng khi giặc kéo về làng đốt phá đình làng, bà vẫn âm thầm chịu đựng, cố gắng đứng lên để giành được sự giúp đỡ, đùm bọc của dân làng. Bà không muốn cháu trai mình ở vùng chiến sự biết rằng công việc ở nhà ảnh hưởng đến công việc của cháu trong quân đội. Đó không phải là phẩm chất cao quý của những bà mẹ Việt Nam anh hùng trong chiến tranh. Ta đọc thấy ở đây sự hy sinh thầm lặng, cao cả và thiêng liêng của người bà, người mẹ nơi hậu phương luôn muốn gánh vác cùng con cháu, cùng đất nước đánh đuổi quân xâm lược, đem lại tự do cho dân tộc. Lời dặn của người bà vẫn được người cháu “quyết tâm” mãi mãi, được trích dẫn nguyên văn và được nhắc lại trực tiếp khi người cháu viết thư cho bà, cho thấy đức tính của người bà thật đáng quý biết bao. Vì vậy, qua đây ta mới thấy hết công lao to lớn của người mẹ Việt Nam đối với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Có được chiến thắng đó không chỉ có sự đóng góp trực tiếp của các chiến sĩ ngoài tiền tuyến mà còn có sự đóng góp to lớn của những người phụ nữ ở hậu phương.

 

Sau khi hồi tưởng về tuổi thơ bên bà ngoại, người cháu tiếp tục suy tư, ngẫm nghĩ về cuộc đời của bà qua hình ảnh bếp lửa:

 

“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
 

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
 

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”

 

Từ “lò sưởi” trong bài thơ gợi “ngọn lửa” mang ý nghĩa trừu tượng, khái quát. Bếp lửa chị thắp mỗi sớm mai không đơn thuần làm bằng những chất liệu tự nhiên mà đã được tác giả nâng lên thành biểu tượng của tình yêu và niềm tin trong sáng, mãnh liệt. Cụm từ “một ngọn lửa” mang ý nghĩa nhấn mạnh sự sống bất diệt của ngọn lửa; Nó cũng có ý nghĩa thể hiện tình yêu thương mà người bà dành cho đứa cháu của mình. Bếp lửa là hình ảnh khúc xạ cho tâm hồn, ý chí và nghị lực sống phi thường của người bà. Vì vậy, bà không chỉ là người thắp lửa, giữ lửa mà còn là người giữ lửa, truyền lửa cho đứa cháu trai yêu quý của mình. Đó là ngọn lửa của sự sống, là niềm tin cho thế hệ sau.

 

Từ suy ngẫm về vai trò của người bà trong cuộc sống, tác giả tiếp tục khẳng định phẩm chất cao quý của người bà: cần cù, giàu đức hy sinh và giàu lòng nhân ái:

 

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
 

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
 

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
 

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
 

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
 

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
 

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
 

Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”

 

Khổ thơ cuối là lời tâm sự chân thành của người cháu khi lớn lên và trưởng thành. Dù khoảng cách về không gian và thời gian có xa xôi “khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm phương” nhưng người cháu vẫn đau đáu trong lòng một nỗi nhớ da diết về bà và bếp lửa. Sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại, giữa “khói lửa” của cuộc sống hiện đại và bếp lò bình dị, mộc mạc của bà đã cho thấy sức sống bất diệt của ngọn lửa mà bà thắp lên sáng tối.Sống và sống mãi trong lòng những đứa cháu.Ngọn lửa ấy đã trở thành ký ức tuổi thơ của bà – người truyền lửa, truyền sự sống, tình yêu thương và niềm tin bất diệt cho thế hệ mai sau , nhớ bà là nhớ bếp lửa, nhớ về cội nguồn dân tộc. Đoạn thơ khép lại bằng một câu hỏi tu từ thể hiện nỗi nhớ da diết, nỗi nhớ xa xăm của người cháu luôn đau đáu, tha thiết nhớ về tuổi thơ của mình, hi gia đình, quê hương, đất nước.

 

Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt là một bài thơ dạt dào cảm xúc. Hình ảnh bếp lửa được thể hiện độc đáo qua giọng điệu thiết tha, giàu cảm xúc; nhịp thơ linh hoạt; kết hợp với phép điệp ngữ được sử dụng biến tấu khiến cho lời thơ với hình ảnh ngọn lửa bùng cháy, bốc lên, mỗi lúc thêm nồng nàn, ấm áp. Từ đó, khiến người đọc vô cùng thấm thía, xúc động trước nỗi nhớ da diết về những kỉ niệm tuổi thơ bên người cháu và tấm lòng chân thành của nhà thơ đối với người bà kính yêu của mình. Qua đó, ta càng thấy yêu, càng thấy trân trọng gia đình, quê hương, đất nước.

 

Mẫu 6 – Bài phân tích Bếp lửa hay nhất:

 

Tuổi thơ của mỗi người gắn liền với vô vàn kỉ niệm bên người thân, bạn bè, bên cạnh đó là những cảm xúc, tình cảm dành cho nhau để sau này khi lớn lên lại dùng những kỉ niệm đó tiếp tục hành trình của mình đời sống. Nhiều tác phẩm văn học, thơ ca, truyện ngắn đều xuất phát từ tình cảm thiêng liêng ấy, tình vợ chồng, tình mẹ con, tình đồng chí, tình quê hương,… Tác giả Bằng Việt đã viết bài thơ “Bếp lửa” với tình cảm và nỗi nhớ nhung về người bà của mình trong thời gian du học ở Liên Xô năm 1963. Hình ảnh người cháu và người bà trải qua cuộc sống khó khăn nhưng chan chứa tình yêu thương, sự quan tâm, chăm sóc, nuôi nấng trong những ngày tháng bố mẹ đi công tác xa và hạnh phúc bên ngọn lửa ấm áp yêu thương.

 

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
 

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
 

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”

 

Hình ảnh bếp lửa được miêu tả từ ba câu thơ đầu qua cụm từ “bếp lửa” và từ “chờ đợi” để ta hình dung ra một khung cảnh bình dị, đơn sơ nhưng ấm áp tình người. Bếp lửa nhóm lên ôm bao nỗi nhớ bà, chứa bao kỉ niệm của đứa cháu nhỏ và bà. Người bà nhân hậu đã thắp lên ngọn lửa tình cảm ấy, cũng giống như sự dịu dàng chăm sóc của bà đối với những đứa cháu, hình ảnh người bà như làn khói bếp mỗi sớm mai, hình ảnh người bà chịu thương chịu khó. Nắng mưa phùn càng thắp lên trong lòng người cháu in rõ bao nỗi nhớ. Từ hai câu đầu qua hình ảnh bếp lửa mỗi sáng, tác giả khắc họa ngọn lửa đầy ắp kỉ niệm, ngọn lửa chan chứa yêu thương, ngọn lửa thắp sáng. Ở những câu tiếp theo, bao nhiêu cảm xúc như vỡ òa trong giây lát “Thương bà biết bao nhiêu nắng mưa”, tác giả đau lòng, xót xa trước nỗi nhớ hình ảnh bà dù mưa hay nắng vẫn chăm chút cho nhau cháu đầy đủ. Cái ăn, cái mặc, những vất vả cả đời bà dành cho cháu, không một lời nói, bà âm thầm làm tất cả vì cháu, tất cả đều là sự hy sinh thầm lặng của người bà kính yêu. Qua đây ta thấy được rằng trong lòng tác giả hình ảnh người bà thiêng liêng biết bao, có cả một trời thương nhớ bà, một câu “Cháu yêu bà” cũng sẽ để lại ý nghĩa sâu sắc trong lòng chúng ta.

 

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
 

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
 

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
 

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
 

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”

 

Trong đoạn văn này, kí ức không phải là những hình ảnh dịu dàng như “đợi sương sớm” hay “vòng ôm ấm áp” mà là những kỉ niệm ám ảnh trong tâm trí tác giả, đứa cháu lên bốn tuổi và người bà cơ cực đang trải qua cuộc chiến nạn đói năm 1945. Không khí đìu hiu, tang thương của nạn đói nhờ người bà kính yêu của cháu đã phần nào vơi bớt, bà vất vả sớm hôm đi mót từng củ khoai, cuốc từng củ sắn để giúp con ăn bớt đói. Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” nghe như tiếng kêu đau lòng, nỗi ám ảnh của đứa trẻ hằn sâu trong tâm trí, nỗi sợ hãi. Khác với nhiều người nghĩ về tuổi thơ của mình như một mảng màu hồng, đối với tác giả đó là một mảng màu xám xen lẫn với màu đỏ của máu từ nỗi đau của nạn đói, nạn đói khủng khiếp, nạn đói lịch sử giết chết hơn hai triệu người. Nhưng có bà luôn ở bên che chở, có làn khói bếp xóa đi phần nào nỗi đau đói rét, ký ức vẫn còn mang chút hơi ấm làm cháu quên đi nỗi khổ. Chi tiết “khói làm cay mắt cháu” để thấy cảnh đứa trẻ bốn tuổi cố che đậy những ám ảnh đói khát bằng khói bếp của mình và chi tiết “cay mũi” vì mùi cay nồng của khói cố giấu đi cái mùi máu tanh trong những ngóc ngách, cay cay vì đứa trẻ ấy đã phải chịu cảnh “đói ăn đói rét” đang len lỏi dần vào từng mảnh ký ức thơ ngây, mang theo nỗi sợ đói, mang theo cả những cơn thèm khát từng củ khoai, củ sắn, rồi những món ăn bình dị cũng trở thành “món ngon nhân gian”.

 

“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
 

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
 

Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
 

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
 

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”

 

“Tám năm” là khoảng thời gian dài mà cháu và bà luôn thắp lên ngọn lửa yêu thương, hơi ấm, ngọn lửa của cuộc đời, quãng thời gian ấy dẫu có gian nan, vất vả nhưng với bà đó vẫn là sự thật bình yên. Tuổi thơ của đứa cháu gắn liền với người bà với ngọn lửa yêu thương, gắn với tiếng tu hú ngoài đồng như thúc giục người nông dân nhanh chóng ra đồng thu hoạch để thoát khỏi đói khát. Bên cạnh đó, khi tiếng tu hú như tiếng chuông: “Bà ơi! Kể chuyện bà nghe”. Điệp từ “tu hú” được lặp lại ba lần như khẳng định nỗi nhớ da diết của tác giả bởi trong văn học nghệ thuật, con tu bao là biểu tượng của một nỗi nhớ da diết. Tiếng tu hú trở thành kỉ niệm dịu dàng về tình cảm giữa tác giả và người bà.

 

“Mẹ cùng cha công tác bận không về,


Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
 

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
 

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
 

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
 

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”

 

Những câu thơ giản dị, mộc mạc ấy vẫn cho thấy sự tận tụy chăm sóc cháu của bà khi “mẹ cha bận công việc không về”. Cấu trúc “bà-cháu” thể hiện tình cảm yêu thương, gắn bó của người bà với đứa cháu. Hình ảnh “bà dạy cháu làm”, dạy cháu làm người, dạy cháu biết tự lập cho cuộc sống của mình, dạy cháu biết yêu thương gia đình, hình ảnh “bà chăm cháu ăn học. ” bà đã dạy cháu từng nét vẽ, lời nói, bà đã cho cháu kiến thức để giúp ích cho đất nước trong tương lai. “Đội lửa nghĩ đến bà vất vả” đứa cháu nhỏ lo lắng cho bà, thấy bà vất vả người cháu cùng bà đốt lửa giúp bà vơi đi phần nào vất vả. Rồi có phần trách đứa trẻ ngây thơ, trách tu hú sao không đến ở với bà, phụ giúp công việc, để bà cô đơn buồn tủi, mà tu hú sao lại luôn tung cánh bay đi.

 

Mẫu 7 - Bài phân tích Bếp lửa đặc sắc, ấn tượng nhất:

 

Có những câu thơ, bài thơ chỉ nghe thôi đã chạm đến trái tim người đọc nhưng lại khiến họ nhớ mãi không quên. Đọc thơ Bằng Việt, chắc chắn người đọc sẽ nhận ra sức lan tỏa kỳ diệu của ngôn từ. Bài thơ Bếp lửa được sáng tác trong những năm tháng kháng chiến với sự gần gũi, ấm áp của ông bà và tuổi thơ gian khổ. Bằng Việt đã thổi hồn vào “bếp lửa” một thời ký ức tươi đẹp nhất.

 

Bài thơ “Bếp lửa” như tiếng lòng của người cháu đối với bà trong những năm tháng tuổi thơ đầy gian nan, lo âu. Hình ảnh “bếp lửa” gần gũi, giản dị trong mỗi gia đình Việt Nam xưa nhưng dường như có sức ám ảnh, lay động trái tim tác giả. Bởi bếp lửa gắn liền với bà, gắn với những kỉ niệm tuổi thơ không thể phai mờ.

 

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
 

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
 

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
 

Ôi kỳ lạ và thiêng liêng bếp lửa

 

Điệp từ “một bếp lửa” có sức truyền cảm, cảm xúc lớn mà chân thành, gợi cho tác giả luôn có một nỗi nhớ thường trực trong đó. Hình ảnh ngọn lửa “đong đưa”, “ấp ủ” thể hiện sự gắn bó, không thể tách rời. Hàng loạt kí ức về bà, về kỉ niệm xưa cứ ùa về thật mạnh mẽ khiến tác giả phải thốt lên “ôi”. Một chữ “ôi” sao mà chan chứa yêu thương, thiêng liêng quá, tha thiết quá. Chắc hẳn Bằng Việt đã có những năm tháng đáng nhớ và đáng quý khi ở bên bà. Kỉ niệm cứ ùa về:

 

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
 

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
 

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
 

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
 

Nghĩ lại bây giờ sống mũi còn cay

 

Một tuổi thơ khốn khó, vất vả bên cạnh bà. Một cậu bé bốn tuổi đã quá quen thuộc với mùi khói từ đám cháy. Đất nước rơi vào ách đô hộ, nạn đói thảm khốc là điều khó tránh khỏi. Khói bếp tuổi thơ trong khóe mắt, âm ỉ cả một bầu trời tuổi thơ. Chữ “cay” cuối câu thơ như lắng lại, gieo vào lòng người một nỗi buồn man mác. Là sống mũi “cay” hay cay đắng tuổi thơ, là thương bà, thương cha mẹ hay thương bếp lửa sớm mai.

 

Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
 

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
 

Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
 

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
 

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế

 

“Tám năm” là khoảng thời gian dài, khoảng thời gian tuổi thơ cháu vất vả bên bà ngoại. Bà và cháu cùng nhau đốt lửa, thắp sáng cuộc đời và thắp sáng tình yêu thương vô bờ bến. Tiếng “tu hú” lặp đi lặp lại trong câu thơ làm cho nhịp thơ đau đớn, khắc khoải. Tu hú sao gọi là hè, tu hú sao gọi là lúa chín, cả ước mơ của cháu tôi về tương lai đất nước hòa bình, độc lập.

 

Mẹ cùng cha công tác bận không về
 

Cháu ở cùng bà bà bảo cháu nghe
 

Bà dạy cháu làm bà chăm cháu học
 

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
 

Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
 

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa

 

Một bài thơ cảm động. Một khổ thơ cảm động được bộc lộ ra sau bao năm đè nén trong lòng. Những năm tháng chung sống với bà tuy khó khăn nhưng tràn đầy yêu thương. Cậu bé thương bà vất vả bên bếp lửa, thương bà một mình nuôi cháu khôn lớn. Và tiếng tu hú làm lòng nặng trĩu.

 

Tình bà cháu trong bài thơ này thực sự khiến người đọc rơi nước mắt. Đất nước chìm trong bom đạn nhưng bà luôn bảo vệ, chăm sóc cho anh từ bữa ăn đến giấc ngủ. Không có tình yêu nào thiêng liêng và cao cả hơn.

Nhưng chiến tranh đã lấy đi bao nhiêu thứ, máu và nước mắt, cả tình yêu:

 

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
 

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
 

Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh
 

Bố ở chiến khu bố còn việc bố
 

Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
 

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên

 

Sự hi sinh cao cả của người bà dành cho cháu. Dù gian khổ, mất mát, hậu phương phải luôn là chỗ dựa vững chắc, bình yên nhất cho tiền tuyến. Hình ảnh người bà trong bài thơ này đầy đức hy sinh cho gia đình, cho đất nước. Lời dặn dò của bà với cháu nặng như ngàn thu, chan chứa tình cảm sâu sắc. Bà thương cháu, thương con, thương quê nghèo.

 

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
 

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
 

Nhóm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
 

Nhóm nồi xôi gạo sẻ chung đôi

 

Khổ thơ cuối là khoảnh khắc trở về với thực tại của tác giả, như một chuyến trở về tuổi thơ. Giọng thơ trùng xuống, xúc động nghẹn ngào:

 

Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu
 

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
 

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
 

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa

 

Đứa cháu bé nhỏ của bà giờ đã lớn, đến một đất nước xa xôi cách bà nửa vòng trái đất, nhưng những ký ức tuổi thơ ấy mãi là một điều thiêng liêng mà bà luôn trân trọng.

Bài thơ “Bếp lửa” với ngôn từ giản dị, hành văn nhẹ nhàng nhưng dường như khiến người đọc thấy cay cay nơi khóe mắt. Một bài thơ chan chứa yêu thương, chan chứa hạnh phúc giữa bao cay đắng của cuộc đời.

 

Trên đây là những chia sẻ của mình về các bài văn mẫu phân tích bài thơ bếp lửa mình xin cảm ơn các bạn đã theo dõi hết bài viết của studytienganh nhé.




HỌC TIẾNG ANH QUA 5000 PHIM SONG NGỮ


Khám phá ngay !